Những tranh luận xung quanh việc có nên để lịch sử­ thà nh môn học tích hợp với các môn giáo dục công dân và an ninh quốc phòng thà nh môn mới là công dân với Tổ quốc trong dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ Giáo dục và Đ à o tạo (GD-Đ T) đã trở thà nh chủ đử nóng trong Hội thảo ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng xét, công nhận sáng kiến Huyện Đại TừTôi ghi tên dưới đây: Số TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác Chức danh Trình độ chuyên mônTỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến 01 Nguyễn Thị Nhung 29/12/1986Trường THCS Minh TiếnGiáo viênCao đẳng Thể Thực hiện kế hoạch năm học 2022 - 2023 của tổ chuyên môn, đồng thời tăng cường các hoạt động nâng cao chất lượng dạy và học theo hướng phát triển phẩm chất năng lực người học theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Chiều ngày 14 tháng 10 năm 2022 Tổ Sử - Địa - GDCD Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng - Lâm Thực tế sau khi áp dụng "Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7 " đã thúc đẩy phát triển một số năng lực cần phải có cho HS như năng lực xã hội gồm: năng lực tự học, năng lực tự giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực Trước câu hỏi có nên tích hợp môn Lịch sử, học sinh không chuyên thì ủng hộ, học sinh chuyên phản đối, nhưng tất cả đều cho rằng cần thiết phải thay đổi cách dạy Lịch sử để hấp dẫn và dễ tiếp thu hơn. Là học sinh không chuyên khối C, Đỗ Xuân Huy, lớp 12D6 THPT Sáng kiến kinh nghiệm hướng dẫn học viên sử dụng sách giáo khoa trong dạy học môn Lịch sử lớp 10 19 trang | Lượt xem: 1737 | Lượt tải: 9 SKKN Vận dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm nâng cao hiệu kplcM0s. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMĐỀ TÀI GIÚP HỌC SINH LỚP 4 HỌC TỐT PHÂN MÔN LỊCH SỬ*********************I. PHẦN MỞ Lí do chọn đề tàiDân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Kể năm hơn bốn nghìn năm, Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà… Đúng vậy, là người Việt Nam thì phải nắm được lịch sử nước nhà. Vì lịch sử là những việc đã diễn ra, có thật và tồn tại khách quan trong quá khứ. Đó là niềm tự hào của cả một dân tộc. Nó là truyền thống của một quốc gia. Do đó, mọi người dân đều phải có nghĩa vụ học tập, noi gương và phát huy những gì tốt đẹp trong quá khứ. Nhưng một thực tế đáng buồn trong việc dạy và học lịch sử và địa lí nói chung, lịch sử nói riêng là đáng báo động. Qua một số kì thi tuyển sinh cao đẳng, đại học những năm qua đã nói lên điều đó. HS nắm rất rõ về lịch sử thế giới, nhưng lại rất mơ hồ về lịch sư nước nhà. Có những sai lầm rất ngớ ngẩn như “Lê Lợi trở thành anh hùng trong kháng chiến chống Pháp”; “ Chiến dịch Hồ Chí minh mùa xuân 1970, quân ta tiến vào Him Lam, Bản Kéo lần lượt chiếm các đồi A1, C1,… Những điều đáng buồn trên xuất phát từ nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể do học sinh chạy theo thời cuộc là coi trọng các môn tự nhiên hơn; hoặc do các em chán và không muốn học lịch sử. Nhưng vấn đề cốt lõi vẫn là người giáo viên chưa thực sự coi trọng tầm quan trọng của việc dạy và học lịch sử. Từ đó trong công tác giảng dạy chưa thực sự đổi mới phương pháp, bài giảng không phù hợp với đối tượng học sinh. Dẫn đến các em không có hứng thú khi học lịch sử, dẫn đến kết quả đáng Do vậy ngày nay, cần “ xốc lại” việc dạy và học môn lịch sử và địa lí ngay từ khi các em bắt đầu làm quen với hai phân môn này học sinh lớp 4. Bản thân là một giáo viên tiểu học, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu để cố tìm ra những biện pháp mà bản thân cho là hợp lí trong việc dạy lịch sử và địa lí. Trong bài viết này, tôi xin trình bày một số kinh nghiệm trong việc dạy học lịch sử khối lớp 4. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tàia. Mục tiêuNhư trên đã nêu lịch sử là những việc đã diễn ra, có thật và tồn tại khách quan trong quá khứ. Do đó học lịch sử không thể phán đoán, suy luận, tưởng tượng mà phải thông qua sử liệu, chứng cứ về sự tồn tại của các sự việc đã diễn ra thông qua các hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, thông qua các bài học cụ thể và theo từng dạng bài lịch sử. Làm sao cho các em tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng, hiệu quả mà không thụ động. Để cho học sinh có khả năng lĩnh hội kiến thức một cách tự nhiên, hứng thú khi học lịch sử. Và quan trọng hơn là các em có khả năng tự trình bày mạch kiến thức lịch sử một cách khoa học và chính xác sau khi học xong chương trình lịch sử lớp Nhiệm vụ nghiên cứu Khi dạy phân môn lịch sử lớp 4, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung chương trình sách giáo khoa, để từ đó có thể nhận diện các dạng bài và lên kế hoạch, tìm phương pháp thích hợp cho từng bài, từng dạng bài. Có thời gian chuẩn bị các phương tiện dạy học phục vụ cho từng bài, từng dạng Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp Phương pháp nghiên cứu- Phương pháp tường thuật, miêu tả, kể chuyện- Sử dụng các phương tiện trực quan- Phương pháp đàm thoại hỏi – đápII. PHẦN NỘI Cơ sử lí luận2Ở các lớp 1,2,3 các em chưa được học LS. Do đó lịch sử là môn học rất mới mẻ với cac em. Cách các em tiếp thu bài ở lớp 4 cũng lạ lẫm hơn với các lớp dưới. Phân môn lịch sử là phân môn đặc trưng, các em bước đâu phải làm quen với nhiều điều mới lạ như bản đồ, lược đồ, bảng số liệu, sử liệu Từ những điều trên nếu không có phương pháp dạy học phù hợp, những gợi mở để học sinh hứng thú tìm tòi thì rất dễ làm cho các em sợ học lịch sử hoặc không có hứng thú khi học phân môn này. Để học sinh có khả năng tiếp thu bài có hiệu quả qua từng bài học cụ thể theo từng dạng bài lịch sử thì các em cần phải nắm được các bước tiến hành của từng hoạt động để chuẩn bị cho tiết học. Nghĩa là giáo viên có trách nhiệm giao việc cho tiết học sau, hướng dẫn học sinh chuẩn bị theo dạng bài. Từ đó học sinh sẽ tích cực và chủ động hơn trong việc học. Qua quá trình học tâp theo tôi là đến giữa học kì I các em sẽ dần quen với môn lịch sử và có cách học lịch sử chủ động và hứng Thực trạnga. Thuận lợi- khó khăn- Thuận lơi Với sự chuẩn bị của giáo viên, cũng như phần giao việc cho HS dẫn đến kết quả của tiết học, môn học đạt hiệu quả Khó khăn Với phân môn lịch sử, để chuẩn bị tốt cho tiết dạy, giáo viên thường phải sưu tầm, tìm tòi tài liệu, sử liệu liên quan đến bài dạy. Đây cũng là một khó khăn vì những tài liệu này trong nhà trường thường không đủ hoặc không Thành công- hạn chếVới cách hướng dẫn để học sinh quen với cách học lịch sử, cách chuẩn bị cho từng dạng bài lịch sử theo từng tiết cụ thể, lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp tôi thấy rằng học sinh nắm bài tốt, hào hứng trong khi học lịch sử, dẫn đến các em thích học phân môn lịch sử, yêu quê hương đất nước, có ý thức hơn để trở thành một công dân Việt Nam Mặt mạnh- mặt yếu3 Mặt mạnh Theo bản thân tôi thấy rằng nếu làm tốt những điều nêu trên thì ngoài việc thành công trong khi dạy lịch sử, người giáo viên còn tự nâng cao được vốn hiểu biết của mình thông qua quá trình tìm tòi, sưu tầm tự học. Mặt yếu Tuy nhiên bên cạnh những mặt mạnh thì cũng có những tồn tại, khó khăn trong quá trình dạy học như Mất nhiều thời gian, công sức cho quá trình chuẩn bị; d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động Như trên đã nêu, lich sử là môn học mới đối với học sinh lớp 4. Do đó, trong quá trình dạy và học thì yếu tố quan trọng nhất để dẫn đến kết quả tốt vẫn là sự tác động của giáo viên vừa là người chuẩn bị, vừa phải giao việc cho học sinh, vừa phải là người tổ chức tiết dạy làm sao cho phù hợp với đặc thù của từng dạng bài để kết quả cuối cùng là học sinh nắm tốt bài Giải pháp- biện phápa. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp - HS ham thích và học tốt phân môn lịch Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện phápTrong chương trình lịch sử lớp 4 có 5 dạng bài sau- Bài học có nội dung về tình hình kinh tế- chính trị; văn hóa – xã Các bài có nội dung về các nhân vật lich Các bài có nội dung về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng, chiến dịch, phản công, tiến công,…- Các bài về thành tựu văn hóa, khoa Dạng bài ôn tập, tổng nội dung bài viết này, tôi xinh trình bày một số vấn đề về việc dạy và học các dạng bài- Bài học có nội dung về tình hình kinh tế- chính trị; văn hóa – xã Các bài có nội dung về các nhân vật lich Với những dạng bài học có nội dung về tình hình kinh tế- chính trị; văn hóa- xã hộiỞ lớp 4, những bài có nội dung thuộc loại này là Bài 1. Nước Văn Lang; Bài 2. Nước Âu Lạc; Bài 9. Nhà Lý dời đô ra Thăng Long; Bài 12. Nhà Trần thành lập; Bài 17. Nhà Hậu Lê và việc tổ chức, quản lí đất nước và Bài 27. Buổi đầu triều Khi dạy các dạng bài này, giáo viên cần cho học sinh nắm được hoàn cảnh ra đời; địa phận; thời gian ra đời và tồn tại của Nhà nước; tên vua, nơi kinh đô đóng, tên nước. GV cần hướng dẫn HS vẽ được sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước một cách đơn giản, hoặc ở mức độ thấp hơn là mô tả được tổ chức bộ máy nhà nước Đứng đầu chính quyền Trung ương Nhà nước là ai? Gồm những tầng lớp nào? Bên dưới chính quyền Trung ương là những đơn vị hành chính nào? Gồm mấy cấp? Đứng đầu mỗi cấp là tầng lớp nào?. Mô tả được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất và tinh thần của con người trong xã hội; cách tổ chức quân đội, luật Để làm được điều đó, theo tôi, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài học. Sau đó phải biết sắp xếp kiến thức thành từng ý, gợi mở vấn đề rồi tổ chức, dẫn dắt cho HS tìm hiểu thông qua đàm thoại. Trong quá trình đàm thoại có sử dụng tới nhiều thuật ngữ, khái niệm khó cũng như nhiều kiến thức trừu tượng Thăng Long; Đại Việt; Tiền Lê; Trước Công nguyên; . Do đó việc miêu tả, giải thích, phân tích của giáo viên là hết sức quan trọng.• Ví dụ khi dạy bài Nước Âu Lạc. Bài này gồm 3 ý lớn là Hoàn cảnh ra đời; đời sống nhân dân, thành tựu về nông nghiệp, quân đội; Lý do thất bại của Âu Lạc. - Trước khi học bài này, dặn HS tìm đọc truyện Mỵ Châu Trọng Để dạy hoạt động “lý do thất bại của Âu Lạc”, tôi làm như sau+ Cho học đọc SGK trang 16, sau đó tìm hiểu bằng hình thức đàm thoại? Không thắng được Âu Lạc, Triệu Đà đã làm gì?5? Triệu Đà hoãn binh và cho con sang làm rể An Dương Vương nhằm mục đích gì?Tới đây giáo viên phải giảng giải cho HS hiểu được âm mưu của Triệu Đà, sau đó tiếp tục tìm hiểu bài.? Kết quả của cuộc đem quân sang đánh chiếm Âu Lạc của Triệu Đà năm 179 TCN như thế nào?? Vì sao Âu Lạc thất bại?• Như vậy với sự chuẩn bị của HS cũng như hệ thống câu hỏi, cách dẫn dắt của giáo viên, HS đã dễ dàng tiếp thu kiến thức một cách chủ động và hiệu quả. HS thấy ngay được kết quả cuối cùng của thời kì Âu Lạc, hơn thế nữa các em còn nhớ kiến thức lâu hơn thông qua câu chuyện đã đọc. * Các bài có nội dung về các nhân vật lịch Ở lớp 4, bài có nội dung thuộc loại này là Bài . Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Trong phân môn Lịch sử lớp 4 không giới thiệu tiểu sử của các nhân vật lịch sử, mà thông qua cuộc đời hoạt động và sự nghiệp của các nhân vật để làm sáng tỏ những sự kiện cơ bản của lịch sử dân tộc. Ví dụ, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước vào năm 968…; Như vậy, nhân vật lịch sử bao giờ cũng gắn liền với sự kiện lịch sử. GV phải biết khai thác tốt các sự kiện để làm nổi bật những hoạt động và công lao to lớn của nhân giảng dạy những bài về nhân vật lịch sử, theo tôi, GV cần lưu ý một số điểm cơ bản sau- Mỗi một bài đều có hình ảnh tranh vẽ, hoặc chân dung nhân vật lịch sử để giúp HS biết được diện mạo cũng như hình thức bên ngoài của nhân vật. GV cần sử dụng và khai thác tốt những bức ảnh này để phục vụ nội dung bài Khi trình bày về nhân vật, phải cho HS biết nhân vật lịch sử đó là người như thế nào? Sinh ra khi nào? Ở đâu? Làm gì? Có đặc điểm, tính cách gì nổi bật? Đời sống nội tâm, tư tưởng, tình cảm thế nào? Tài năng, đức độ ra sao? 6- Phải miêu tả cụ thể và tường thuật hay kể lại những hoạt động của họ để làm cơ sở cho việc đánh giá khách quan công lao của các nhân vật đó đối với lịch sử. Khi miêu tả, tường thuật tình tiết các hoạt động, GV có thể kết hợp phân tích để HS hiểu sâu hơn nội dung, bản chất sự kiện.* Để làm được như trên, ngoài sách giáo khoa, giáo viên phải tìm tòi, sưu tầm những câu chuyện, mẩu chuyện về tiểu sử, sự nghiệp của nhân vật. Từ sự hiểu biết đó mới có thể truyền tải kiến thức đến HS một cách sinh động và có hiệu quả thông qua hình thức kể hay thuật lại. Bên cạnh sự chuẩn bị trên, hệ thống câu hỏi để khai thác nội dung bài cũng hết sức quan trọng. VD Chuẩn bị cho bài “ Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân” Trước tiên tôi tìm đọc và cho HS đọc truyện tranh “ Thưở hàn vi của Đinh Bộ Lĩnh” của Nhà xuất bản Giáo dục. Từ sự chuẩn bị đó, trong hoạt động tìm hiểu về con người Đinh Bộ Lĩnh, HS sẽ tiếp thu bài hào hứng và có hiệu quả. Ngoài ra GV còn nên tìm hiểu thêm về con người cũng như công lao của Đinh Bộ Lĩnh, để trong tiến trình tiết dạy có thể lồng vào trong hoạt động tìm hiểu về sự kiện dẹp loạn 12 sứ quân của ông để tiết học thêm sinh động. Chẳng hạn khi dạy hoạt động 2 “ Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn”, tôi làm như sau- Cho HS đọc đoạn “ Lớn lên gặp buổi loạn lạc , niên hiệu là Thái Bình”. SGK – Trang 25Giáo viên nói thêm Nhờ có tài thao lược, lớn lên ĐBL dựng cờ khởi nghĩa do đó dân làng theo ông rất đông. Nhưng vì bất hòa với chú của mình, Bộ Lĩnh đã cùng con trai là Đinh Liễn sang ở với nghĩa quân của Trần Minh Công Thái Bình. Thấy Đinh Bộ Lĩnh khôi ngô, lại có tài, Minh Công đã giao cho ông nắm binh quyền. Khi Minh Công qua đời, Bộ Lĩnh đem quân về lại Hoa Lư, tập hợp anh hùng. Và chỉ trong vòng 1 năm, ông đã bình được các sứ quân và lên ngôi Hoàng Đặt một số câu hỏi cho HS trả lời? Đất nước gặp buổi loạn lạc, Đinh Bộ Lĩnh đã làm gì? Xây dựng lực lượng để dẹp loạn 12 sứ quân7? Vì sao ông được nhân dân ủng hộ? Vì ông là người tài giỏi và có chí lớn? Kết quả cuối cùng như thế nào? Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp được loạn 12 sứ quân và lên ngôi Hoàng đế* Như vậy, với việc được đọc truyện, được nghe GV kể và với việc tìm hiểu bài qua hình thức đàm thoại, HS sẽ tiếp thu bài hào hứng và có hiệu quả. Các em thấy ngay được công lao của Đinh Bộ Lĩnh qua con người và hành động của Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp- Để thực hiện như trên, theo tôi là không mới và không khó. Nhưng người giáo viên phải thực sự chú trọng trong việc dạy lịch sử thì sẽ thành Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp- Giáo viên phải luôn linh hoạt trong quá trình chuẩn bị, giao việc cũng như trong khi dạy học, làm sao cho phù hợp đến từng đối tượng học sinh, phù hợp với từng lớp. Trong một tiết dạy, có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau để tiết dạy thêm sinh động và phù hợp với nội dung bài học Có thể trong một hoạt động sử dụng 2 hình thức như “kể” và “đàm thoại” e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu- Qua quá trình dạy học, tôi đã áp dụng những biện pháp trên và thấy rằng bước đầu đã đem lại được những kết quả Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị của vấn đề nghiên cứu- Học sinh hứng thú khi học lịch sử, kết quả học tập của các em được nâng lên rõ rệt. Do đó tôi cho rằng biện pháp của tôi đưa ra có thể áp dụng vào việc dạy và học phân môn lịch sử lớp Kết luận, kiến nghị Kết luận- Như vậy trong phạm vi của bài viết, tôi đã nêu ra một số biện pháp khi dạy 2 dạng bài lịch sử lớp 4 là + Các bài học có nội dung về tình hình kinh tế- chính trị; văn hóa- xã hội. + Các bài có nội dung về các nhân vật lịch Qua quá trình giảng dạy, tôi đã thực hiện những biện pháp trên và đã đạt được hiệu quả Kiến nghị- Nội dung của bài viết trên chỉ là ý nghĩ chủ quan của bản thân. Mong quý thầy cô góp ý và cho ý Bài viết chỉ mới trình bày được biện pháp để dạy 2 dạng bài trong phân môn lịch sử lớp 4. Các thầy cô giúp tôi hoàn thành các dạng bài còn lại. 9 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI ĐOÀN NGUYỆT LINH ph¸t triÓn N¡NG LùC Tù HäC cho HäC SINH trong d¹y häc mn LÞCH Sö ë trêng TRUNG HäC PHæ TH¤NG Thực nghiệm qua lớp 10 chương trình chuẩn Chuyên ngành Lý luận và PPDH bộ môn Lịch sử Mã số LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học GS. TS NGUYỄN THỊ CÔI HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu được công bố trong luận án chưa từng được công bố trong một công trình nào khác. Tác giả Đoàn Nguyệt Linh MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ, sơ đồ MỞ ĐÂU.................................................................................................................. Chương 1 TỔNG QUAN NHỮNG TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI............................................................................................... Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về NLTH.......................................... Tài liệu tâm lý, giáo dục học................................................................... Tài liệu giáo dục Lịch sử....................................................................... Nghiên cứu của các tác giả trong nước về NLTH........................................ Tài liệu của lãnh tụ, Đảng, Nhà nước................................................... Tài liệu Giáo dục học, tâm lý học......................................................... Tài liệu Giáo dục LS............................................................................. Tạp chí, luận án, luận văn..................................................................... Những vấn đề các tác giả trong và ngoài nước đã giải quyết...................... Những vấn đề luận án kế thừa và tiếp tục giải quyết................................... Chương 2 VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT. LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.......................................................................................................... Cơ sở lí luận.................................................................................................... Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài........................................... Phân loại năng lực................................................................................ Các thành tố NLTH trong dạy học LS ở trường THPT.............................. Các yếu tố tác động đến phát triển NLTH Lịch sử của học sinh............... Vai trò, ý nghĩa của việc phát triển NLTH cho HS trong dạy học LS ở trường THPT.................................................................................................... Cơ sở thực tiễn................................................................................................ Kết quả điều tra, khảo sát..................................................................... Nguyên nhân của thực trạng................................................................. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết...................................................... Chương 3 CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Thực nghiệm qua dạy học Lịch sử lớp 10 chương trình chuẩn............................................................................................................ Khái quát chương trình sách giáo khoa môn Lịch sử ở trường THPT ................................................................................................................................. Lịch sử thế giới..................................................................................... Lịch sử Việt Nam................................................................................... Một số yêu cầu khi tiến hành các biện pháp phát triển NLTH LS cho HS ................................................................................................................................. Các biện pháp phát triển NLTH cho HS trong dạy học LS ở trường THPT ................................................................................................................................. Nhóm biện pháp tạo động cơ tự học Lịch sử......................................... Nhóm biện pháp hướng dẫn HS lĩnh hội kiến thức về phương pháp TH bộ môn....................................................................................................... Nhóm biện pháp hướng dẫn HS luyện tập kĩ năng tự học..................... Chương 4 HỆ THỐNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC TỰ HỌC LỊCH SỬ VÀ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM TOÀN PHẦN............................. Hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực tự học môn Lịch sử cho học sinh ở trường THPT....................................................................................................... Một số lý thuyết nền tảng để xây dựng tiêu chí đánh giá năng lực tự học Lịch sử của học sinh THPT................................................................ Các nguyên tắc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá NLTH......................... Quy trình xây dựng bộ tiêu chí đánh giá NLTH môn LS cho HS ...................................................................................................................... Hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực tự học môn Lịch sử cho học sinh THPT................................................................... Thực nghiệm sư phạm.................................................................................. Mục đích của việc thực nghiệm........................................................... Đối tượng và địa bàn thực nghiệm...................................................... Nội dung thực nghiệm sư phạm........................................................... Phương pháp thực nghiệm.................................................................. Kết quả học tập trước khi TNSP.......................................................... Kết quả thực nghiệm sư phạm..................................................................... Về định lượng...................................................................................... Phân tích định tính.............................................................................. Đánh giá việc phát triển năng lực tự học của học sinh thông qua kết quả theo dõi sự tiến bộ của một nhóm HS Case study.......................... Thăm dò ý kiến của GV về các biện pháp sư phạm đã đề xuất thông qua các giáo án thực nghiệm sư phạm................................................ Nhận xét chung về các biện pháp phát triển NLTH cho HS trong dạy học LS ở trường THPT....................................................................................... KẾT LUẬN.......................................................................................................... DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN................................................................................................... DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ PHỤ LỤC............................................................................................................ DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ĐC Đối chứng GV Giáo viên HS Học sinh KN Kỹ năng LS Lịch sử NLTH Năng lực tự học PP Phương pháp PPDH Phương pháp dạy học SGK Sách giáo khoa TH Tự học THCS Trung học cơ sở THCS Trung học sơ sở THPT Trung học phổ thông THPT Trung học phổ thông TN Thực nghiệm TNSP Thực nghiệm sư phạm DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng Quy trình luyện tập KN TH của HS và những tác động của GV........... Bảng Kết quả TNSP từng phần biện pháp phát triển NLTH cho HS qua dạy học nêu vấn đề.............................................................................. Bảng Kết quả TN từng phần biện pháp hướng dẫn HS tự làm việc với SGK LS............................................................................................... Bảng Kết quả TN từng phần biện pháp luyện tập KN TH cho HS khi ở nhà trước giờ học................................................................................. Bảng Tổng hợp kết quả TN từng phần hướng dẫn HS luyện tập KNTH thông qua hệ thống bài tập về nhà....................................................... Bảng Kết quả học tập của HS nhóm TN, ĐC trước khi TNSP..................... Bảng Phân bố điểm của nhóm lớp TN và nhóm lớp ĐC sau khi TN............ Bảng Phân bố tần suất luỹ tích hội tụ lùi của nhóm TN, ĐC sau TN............ Bảng Điều tra GV về nội dung bài học TNSP.............................................. Bảng Điều tra HS về các tiết học trong quá trình TNSP............................... DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ Biểu đồ tổng hợp ý kiến của GV về đánh giá NLTH của HS.............52 Biểu đồ Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển NLTH LS của HS...........53 Biểu đồ Tổng hợp ý kiến của HS về ý nghĩa của việc THLS..........................55 Sơ đồ Sơ đồ Biểu hiện của NLTH.......................................................................... 33 Biểu hiện của người có NLTH........................................................... 33 1 MỞ ĐÂU 1. Tính cấp thiết của vấn đề 1. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế vào năm 2020 là phát triển nguồn nhân lực. Nhân tố quan trọng và là điều kiện để phát triển nguồn nhân lực là giáo dục và đào tạo, như Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và đào tạo đã xác định “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.”; “Phải đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học, đảm bảo điều kiện và thời gian TH, tự nghiên cứu” [41,45] Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011- 2020 ban hành kèm theo Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học”. [15,13] Định hướng trên được pháp chế hóa trong Luật Giáo dục 2009. Tại điều 5, Luật Giáo dục quy định “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Và tại tại điều 28, luật giáo dục quy định “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp TH...” [ Yêu cầu của đổi mới PPDH là phải sử dụng các PPDH phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp TH của HS. Việc TH, tự đào tạo ngày càng có vai trò quan trọng đối với giáo dục nói chung và nhu cầu nắm vững tri thức của mỗi cá nhân nói riêng. Việc tìm ra các biện pháp hữu hiệu tổ chức có hiệu quả hoạt động TH để trang bị cho người học NLTH là nhu cầu bức thiết và 2 mang ý nghĩa chiến lược đối với lợi ích trước mắt và lâu dài của ngành Giáo dục nói riêng và quốc gia nói chung. 2. Bộ môn LS ở trường THPT phải góp phần vào thực hiện mục tiêu giáo dục đã đặt ra. Muốn vậy việc dạy học LS ở trường phổ thông cần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học để phát triển cho HS các năng lực học tập, trong đó đặc biệt là năng lực tự học LS nhằm nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn. Việc phát triển năng lực tự học nói chung, năng lực tự học LS nói riêng có vai trò quan trọng trong dạy học ở trường THPT. Tự học là một bộ phận cấu thành phương pháp học. Hay nói cách khác, trong ph¬ng ph¸p häc th× cèt lâi lµ ph¬ng ph¸p tù häc, ã lµ cÇu nèi gi÷a häc tËp vµ nghiªn cøu khoa häc. NÕu rÌn luyÖn cho ngêi häc cã îc năng lực tự häc, biÕt øng dông nh÷ng iÒu häc vµo t×nh huèng míi, biÕt tù lùc ph¸t hiÖn vµ gi¶i quyÕt nh÷ng vÊn Ò gÆp ph¶i th× sÏ t¹o cho hä lßng ham häc, kh¬i dËy tiÒm n¨ng vèn cã cña mçi ngêi. Chương trình giáo dục phổ thông cấp THPT quy định về PPDH phải tăng cường rèn luyện năng lực làm việc với SGK, tài liệu tham khảo và rèn luyện NLTH. Hiện nay, lượng thông tin kiến thức bộ môn LS ngày càng nhiều, trong khi thời gian trên lớp rất hạn chế. Vì vậy,việc phát triển NLTH là một giải pháp quan trọng góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng bộ môn và thực hiện đổi mới PPDH theo hướng tích cực hoạt động của HS. 3. Thực trạng việc dạy học LS ở trường phổ thông, việc phát triển năng lực tự học LS cho HS còn nhiều hạn chế. Chương trình SGK còn mang nặng tính hàn lâm, PPDH còn chưa phát huy được tính tích cực học tập của HS, sức ỳ trong học tập của HS là rất lớn. Việc hướng dẫn HS TH còn hạn chế về tần suất và hiệu quả. GV chưa chú ý đến việc phát triển năng lựcTH cho HS, chưa có quy trình khoa học để tổ chức cho HS TH một cách có hệ thống. Về phía HS, phần lớn HS chưa coi trọng việc TH môn LS, chưa biết sử dụng phương pháp TH một cách có hiệu quả và khoa học để lĩnh hội tri thức. Thực trạng này làm hạn chế việc hoàn thành mục tiêu của đổi mới PPDH nói chung và hiệu quả trong dạy học môn LS ở nhà trường THPT nói riêng. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn vấn đề “Phát triển NLTH cho HS trong dạy học môn LS ở trường THPT thực nghiệm qua lớp 10 chương trình chuẩn” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ của mình. 3 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình phát triển NLTH môn LS và những biện pháp sư phạm nhằm phát triển NLTH trong dạy học môn LS cho HS ở THPT. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn - Về nội dung trong môn học LS Luận án vận dụng vào chương trình Lịch sử THPT và thực nghiệm qua chương trình LS lớp 10 chương trình chuẩn - Về lý luận phương pháp dạy học LS Luận án tập trung vào nghiên cứu việc phát triển NLTH môn LS cho HS THPT trong hoạt động nội khóa cả trên lớp và ở nhà. - Về điều tra thực trạng và thực nghiệm sư phạm chúng tôi tiến hành lựa chọn một số trường THPT để điều tra, khảo sát và thực nghiệm sư phạm ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam. Các trường THPT được lựa chọn đều có cả vùng đô thị, nông thôn và miền núi nhằm đảm bảo tính khách quan cho vấn đề nghiên cứu. Cụ thể như sau + Điều tra nghiên cứu thực trạng về phát triển NLTH môn LS cho HS THPT ở một số tỉnh thành Phú Thọ, Hà Nội, Bắc Ninh,Thái Nguyên, Thái Bình, Nghệ An, Huế, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long + Về thực nghiệm sư phạm tiến hành thực nghiệm sư phạm tại một số trường THPT ở khu vực Lạng Sơn, Phú Thọ, Hà Nội, Huế, Lâm Đồng, Cần Thơ, Vĩnh Long 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu của luận án Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của vấn đề phát triển NLTH cho HS trong dạy học LS, đề tài tập trung xác định nội dung, biểu hiện, hệ thống các tiêu chí đánh giá NLTH LS của HS ở trường THPT và đề xuất các biện pháp sư phạm phát triển NLTH cho HS trong quá trình dạy học môn LS ở trường THPT. Nhiệm vụ của luận án Để đạt được mục tiêu trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau - Tìm hiểu lí luận về NLTH nói chung và NLTH môn LS nói riêng. - Điều tra khảo sát thực trạng về dạy và học môn LS ở trường THPT nói chung vấn đề phát triển NLTH LS nói riêng để có cơ sở thực hiện các biện pháp phát triển NLTH môn LS cho HS ở trường THPT. 4 - Xác định nội dung, biểu hiện và hệ thống các tiêu chí để đánh giá NLTH môn LS của HS ở trường THPT. - Tìm hiểu nội dung chương trình SGK LS THPT nói chung, LS lớp 10 nói riêng để đề xuất các biện pháp phát triển NLTH cho HS trong dạy học LS ở trường THPT. - Thực nghiệm từng phần và toàn phần để kiểm chứng những biện pháp sư phạm mà luận án nêu ra. Từ đó rút ra những kết luận khoa học góp phần đổi mới phương pháp dạy học LS để nâng cao chất lượng dạy-học môn LS ở nhà trường THPT. 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận - Cơ sở phương pháp luận của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về nhận thức, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về Giáo dục nói chung, giáo dục LS nói riêng, đặc biệt là lý luận về phát triển NLTH. Phương pháp nghiên cứu - Đọc, phân tích, tổng hợp và khái quát những tài liệu của các tác gia kinh điển, các tài liệu Giáo dục học, Tâm lý học, PPDH LS về phát triển các năng lực học tập môn LS nói chung, TH nói riêng và các tài liệu LS có liên quan tới đề tài. - Nghiên cứu chương trình và SGK LS ở trường THPT. - Điều tra thực tiễn, thông qua điều tra xã hội học trong GV và HS ở các trường THPT, dự giờ thăm lớp để có kết luận chính xác về thực trạng dạy học LS ở trường THPT nói chung, thực trạng về NLTH và việc phát triển NLTH trong môn LS của HS THPT nói riêng, làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp sư phạm phù hợp. - Thực nghiệm sư phạm Soạn bài và tiến hành thực nghiệm sư phạm từng phần, toàn phần nhằm kiểm nghiệm tính khả thi của các biện pháp sư phạm mà luận án đã đưa ra. - Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả thực nghiệm sư phạm. 5. Giả thuyết khoa học Nếu vận dụng các biện pháp phát triển NLTH cho HS trong dạy học môn LS theo đúng yêu cầu mà luận án đề xuất sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn LS ở trường phổ thông. 6. Đóng góp của Luận án 5 Luận án được hoàn thành sẽ có những đóng góp sau - Xác định những nhận thức đúng đắn về vấn đề TH và khẳng định rõ vai trò ý nghĩa của việc phát triển NLTH môn LS cho HS ở trường THPT. - Xác định nội dung, biểu hiện của NLTH LS và các tiêu chí đánh giá NLTH môn LS của HS THPT. - Đề xuất những biện pháp sư phạm phát triển NLTH LS cho HS trong quá trình dạy học bộ môn ở trường THPT. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa khoa học Luận án góp phần làm phong phú thêm hệ thống lí luận và PPDH LS về vấn đề TH. - Ý nghĩa thực tiễn kết quả nghiên cứu giúp GV môn LS ở trường THPT vận dụng vào thực tiễn dạy học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn. Đồng thời kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo cho giảng viên, GV các trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm khi dạy và học môn PPDH LS; là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học… chuyên ngành sư phạm LS. 8. Cấu trúc của luận án Ngoài mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương Chương 1 Tổng quan những tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài. Chương 2 Vấn đề phát triển NLTH cho HS trong dạy học LS ở trường THPT. Lí luận và thực tiễn. Chương 3 Các biện pháp phát triển năng lực tự học cho HS trong dạy học Lịch sử ở trường THPT Thực nghiệm qua lớp 10 chương trình chuẩn Chương 4 Hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực tự học Lịch sử và thực nghiệm sư phạm toàn phần. 6 Chương 1 TỔNG QUAN NHỮNG TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Ở những góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề năng lực nói chung và NLTH, NLTH LS nói riêng. Trong khuôn khổ của luận án, tác giả đã tham khảo nhiều loại tài liệu khác nhau giáo dục học, giáo dục LS, tài liệu tập huấn, bồi dưỡng GV và nguồn tài liệu chuyên khảo cho môn LS ở trường phổ thông của các nhà nghiên cứu ngoài nước, trong nước. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về NLTH Tài liệu tâm lý, giáo dục học Đối với vấn đề TH và phát triển NLTH, từ xa xưa đến nay đã có nhiều nhà Tâm lý học- Giáo dục học đề cập đến. Trong LS Giáo dục, tự học là một khái niệm được đề cập đến rất sớm thường được sử dụng với ý nghĩa là người học tự giác, chủ động thực hiện các hoạt động học tập của mình. Khái niệm NLTH là khả năng người học thực hiện các hoạt động TH. Do vậy khi nói đến TH và NLTH một số tác giả coi đó là hai khái niệm có chứa cùng một nội dung. Trong nghiên cứu của mình khi xác định tổng quan vấn đề NLTH chúng tôi cũng xuất phát từ khái niệm TH, cũng có khi được hiểu như là NLTH. LS Trung Hoa cổ đại đã xuất hiện các nhà giáo dục kiệt xuất, nổi bật là Khổng Tử 551- 479. Trong cuộc đời dạy học của mình, ông quan tâm và coi trọng mặt tích cực suy nghĩ, sáng tạo của HS. Cách dạy của ông là gợi mở để học trò tìm ra chân lý. Ông nói với học trò của mình “Không giận vì không muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì không rõ thì không bày vẽ cho, một vật có 4 góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra 3 góc kia thì không dạy nữa” [98; 60]. Mạnh Tử 372- 289, đòi hỏi người học phải tự suy nghĩ, chứ không nên cứ nhắm mắt theo sách “cả tin ở sách thì chi bằng không có sách”. Ông đòi hỏi người học phải tự cố gắng mà tìm hiểu, ông ví người dạy học như người dạy bắn cung, chỉ kéo thẳng dây cung mà không bắn tên đi hộ, tự người bắn phải bắn lấy [39; 56] Trong nền Giáo dục Phương tây cổ đại, ý tưởng dạy học coi trọng người học 7 và trao quyền tự chủ cho người học đã được chú ý đến. Phương pháp giảng dạy của Heraclitus 530-475, Socrate 469- 390, Aristote 384- 322 nhằm mục đích phát hiện chân lý bằng cách đặt câu hỏi để người học tự tìm ra kết luận. Sau đó cùng với những diễn biến thăng trầm của LS và sự phát triển nhận thức xã hội mà ý tưởng này tiếp tục phát triển. Vistorrino 1378- 1446, người Ytalia từng nói “tôi muốn dạy cho thanh niên suy nghĩ, chứ không nói bậy”. Vì vậy ông đã dạy cho HS lý trí, sự phán đoán, tinh thần sáng tạo [39; 56] Jonh Locke 1632, người Anh. Yêu cầu người thầy giáo phải gợi ý tò mò của HS. Đây được coi là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của TH. Ông nói “Tò mò là cái lợi khí lớn nhất của tự nhiên dùng để sửa cái dốt nát của chúng ta” [39; 57] Nhà sư phạm 1592- 1670, ông tổ của nền giáo dục cận đại, người đặt nền móng cho sự ra đời của nhà trường hiện nay đã khẳng định “không có khát vọng học tập thì không trở thành tài”. Trong tác phẩm “Phép giảng dạy vĩ đại”, ông đã nêu ra nguyên tắc, phương pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực của HS, ông cương quyết phản đối lối dạy học áp đặt, giáo điều. Tư tưởng này cho thấy trong dạy học cần phải xây dựng hoài bão, tạo động cơ để người học có thể tự vượt qua các trở ngại trong học tập. [98; 62]. Thế kỷ 18-19, các nhà giáo dục như trong các công trình nghiên cứu của mình về giáo dục và phát triển trí tuệ nhấn mạnh, muốn phát triển trí tuệ người học phải phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo để tự giành lấy tri thức. Conxtantin Đmitrevic Usinxki 1824- 1870 đã nghiên cứu về tính tích cực, tính độc lập của HS. Theo ông cần giáo dục cho HS biết định hướng, biết hành động một cách sáng tạo, biết tự mình nâng cao vốn học vấn và tự phát triển bản thân mình. 1862- 1946 trong tác phẩm “TH như thế nào”, NXB Thanh niên năm 1990, đã trình bày nhiều vấn đề về phương pháp TH, đặc biệt là phương pháp sử dụng tài liệu và ông đã nhấn mạnh “việc giáo dục động cơ đúng đắn là điều kiện cơ bản để bạn tích cực, chủ động trong TH” [79,36]; “Hãy mạnh dạn tự mình đặt ra câu hỏi rồi tự mình lấy câu trả lời,đó là phương pháp TH” [79,7]. Ông cũng 8 cho rằng, nhiệm vụ của người thầy phải xây dựng được các bài tập nghiên cứu, hình thành cho HS nhu cầu giải quyết các bài tập nghiên cứu là một trong các biện pháp hình thành và phát triển NLTH cho HS. Trong tác phẩm “Lịch sử giáo dục thế giới” do Hà Nhật Thăng chủ biên đã nói đến, và đã thiết kế các bài tập nhận thức, nhất là các bài tập nêu vấn đề, giúp người học nâng cao tính tích cực nhận thức và đạt kết quả cao trong hoạt động TH. [98] Trong những năm 30 của thế kỉ XX, Tsunesaburo Makiguchi 1871- 1944 nhà sư phạm lỗi lạc Nhật Bản đã trình bày những tư tưởng giáo dục mới. Trong cuốn “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo” NXB trẻ năm 1994, có trích dẫn quan niệm của ông cho rằng giáo dục có thể coi là quá trình hướng dẫn TH, mà động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc của bản thân và cộng đồng [100, 19] Ngay từ những năm đầu cách mạng tháng mười Nga, rất quan tâm tới vấn đề TH, tự nghiên cứu của HS, bà cho rằng Điều quan trọng là dạy HS học tập, mà không chờ đợi người khác làm điều đó thay mình. GV không chỉ làm diễn giả, HS không chỉ làm thính giả, không những cần dạy cho HS biết nghe mặc dầu điều đó hoàn toàn cần thiết, mà còn cần dạy họ biết tự mình làm như, đọc, hiểu điều đã đọc, kiểm tra nhiều điều bằng con đường nghiên cứu, tìm tài liệu, đánh giá tài liệu, tập hợp lựa chọn tài liệu. [98]. Đến năm 1971, tác giả Goroxepxki đã viết cuốn “Tổ chức công việc tự học của sinh viên đại học”, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm công tác cá nhân của mình trong các trường đại học đối với việc tổ chức tự học cho sinh viên. Tác giả đã đưa ra đề nghị về phương pháp học tập của sinh viên đại học trên mấy vấn đề cơ bản nghe và ghi bài giảng; đọc và ghi tài liệu; chuẩn bị Xemina; làm bài tập nghiên cứu và luận văn tốt nghiệp; chuẩn bị kiểm tra và thi; tổ chức lao động trí óc và kế hoạch làm việc. trong cuốn sách “Phát huy tính tích cực của HS như thế nào” tập, NXB Giáo dục năm 1978, đã khẳng định vai trò của TH trong việc nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ của HS khi thông hiểu và tiếp thu tri thức mới. Tác giả cho rằng Quá trình nắm kiến thức mới không thể tiến hành bằng việc học thuộc một cách bình thường các qui tắc, các kết luận và khái quát hóa nó được xây dựng 9 trên cơ sở cải tiến công tác tự lập của HS, của việc phân tích tài liệu, sự kiện, làm nền tảng cho việc hình thành các khái niệm khoa học. Ông cho rằng cần tăng cường việc nghiên cứu làm việc với SGK, với tài liệu học tập, dạy học nêu vấn đề, cải tiến công tác tự lực học tập, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá [51]. Theo Savin, trong cuốn “Giáo dục học tập 1”, NXB Giáo dục năm 1983, TH và TH theo SGK cần được rèn luyện theo các bước xác định chủ đề, vấn đề cần biết cần tìm hiểu, đọc chăm chú tài liệu, phân chia thành các phần và lập dàn ý, trả lời miệng cho các câu hỏi, rút ra kết luận về toàn bộ những điều đọc được. GV có thể tổ chức việc TH ở nhà cho HS qua các bài tập về nhà, các phiếu bài tập. Năm 1985, tác giả và Shakti trong tác phẩm “Phương pháp dạy học ở đại học” đã nghiên cứu hoạt động tự học như là một phương pháp dạy học hiệu quả- phương pháp tự học. Theo các tác giả, trước tiên người giáo viên phải lồng ghép phương pháp này vào công việc của chính mình, sau đó phải tìm ra một phương thức hoạt động nhằm khuyến khích sinh viên của mình tự học. Phương pháp này có thể thực hiện được trong các nội dung bài giảng khác nhau theo những hình thức khác nhau, và ở trình độ tổng quát nhất, phương pháp này có thể được hình dung như một quá trình gồm ba giai đoạn Giai đoạn một, người giáo viên phải thiết kế bài tập; cung cấp các nguồn tài liệu cần thiết cho bài tập; chỉ dẫn cụ thể và rõ ràng cho học viên những gì học viên phải làm. Giai đoạn hai, học viên tự làm bài tập với sự hỗ trợ của những thông tin có sẵn. Giai đoạn ba, học viên nộp bài tập đã hoàn thành, giảng viên kiểm tra dựa trên một số tiêu chuẩn nhất định. Nếu học viên làm tốt, có nghĩa là học viên đã học được những điều cần học bằng các bài tập, giáo viên sẽ tiếp tục yêu cầu học viên làm các công việc khác. Nếu học viên không làm tốt, giáo viên sẽ hướng dẫn học viên làm lại hoặc sẽ tìm hiểu theo một hướng khác. Đây là một lý thuyết mới về tổ chức tự học dưới cách tiếp cận tự học là một phương pháp dạy học. Năm 1986, Sharma và đã nghiên cứu hoạt động TH như là một hình thức tổ chức dạy học bằng cách dạy phương pháp TH cho người học. Theo các tác giả, người ta có thể dạy phương pháp cho HS bằng nhiều hình thức khác nhau 10 tùy theo điều kiện, hoàn cảnh, tùy theo tính chất đặc thù môn học và nôi dung, yêu cầu của bài học. Dù theo hình thức nào cũng phải thực hiện theo các giai đoạn sau - Giai đoạn 1 GV thiết kế bài tập và cung cấp nguồn tài liệu cần thiết cho bài tập và chỉ dẫn cụ thể những gì HS phải làm để hoàn thành bài tập. - Giai đoạn 2 GV tổ chức cho HS tự nghiên cứu, tự làm bài tập với sự hỗ trợ của những thông tin có sẵn. - Giai đoạn 3 GV làm việc với HS trên lớp theo hình thức cá nhân hay tập thể thông qua những hình thức khác nhau như thảo luận, semina, củng cố ôn tập, kiểm tra đánh giá, tự kiểm tra đánh giá. Đây là lý thuyết về tổ chức TH dưới góc độ nhìn nhận TH như là một PPDH. Sau Chiến tranh thế giới hai, các nước Tây âu và Mĩ đã quan tâm tìm phương pháp giáo dục mới, dựa trên cơ sở cách tiếp cận “lấy người học làm trung tâm”, với mong muốn giải phóng năng lực sáng tạo ở người học. Đã có nhiều quan điểm, tư tưởng lớn đề cập đến những khía cạnh khác nhau của TH. Những tư tưởng này đều có điểm chung đó là đề cao vai trò của TH trong quá trình nâng cao nhận thức. Mặc dù những tư tưởng này đã có từ lâu tuy nhiên đến nay vẫn còn nguyên giá trị và được phát triển trong giáo dục hiện đại. Những năm cuối thế kỷ XX các nhà giáo dục tập trung nghiên cứu bản chất NLTH, theo thống kê của Candy 1987 đã xác định có ít nhất 30 khái niệm khác nhau được sử dụng đồng nghĩa với NLTH đó là học tập độc lập, người học tự kiểm soát, hướng dẫn bản thân, học tập phi truyền thống, học tập mở, TH, tự giáo dục, học tập tự tổ chức, TH theo kế hoạch. Nội dung các định nghĩa tập trung mô tả người TH đó là chủ động thể hiện kết quả học tập của mình, kiên trì trong học tập và chịu trách nhiệm về việc học. Một tác giả khác là Raja Roy Singh trong cuốn “Nền giáo dục cho thế kỉ 21- Những triển vọng của châu Á Thái Bình Dương”, 1994 viện Khoa học giáo dục, đã đưa ra những nghiên cứu về vai trò của năng lực tự học trong việc học tập thường xuyên và học tập suốt đời, ông đề cao vai trò của là chuyên gia cố vấn của người thầy trong việc học tập thường xuyên, học tập suốt đời, trong việc hình thành phát triển năng lực tự học của người học, Ông quan niệm “Học tập do người học điều khiển”. tác giả nhấn mạnh hoạt động học, vai trò của người học 11 trong hoạt động học. Ông cho rằng làm thế nào để cá nhân hóa quá trình học tập, để cho tiềm năng của mỗi cá nhân được bộc lộ, phát triển đầy đủ đang là thách thức chủ yếu đối với giáo dục [73]. Nhà tâm lý học Mỹ Cray Roger chủ trương hình thành môi trường học tập, trong đó người học có ý thức về bản thân, an toàn và tự do để lựa chọn. Người học phải có trách nhiệm đầy đủ về sự quyết định, về hành động và kết quả học tập của họ, GV có nhiệm vụ xây dựng môi trường học tập tin cậy an toàn trở thành người cùng học, chuẩn bị sẵn sàng các nguồn lực và kỹ thuật học tập. Marzano, trong công trình khoa học “Dạy học theo những định hướng của người học”, xuất bản bởi học viên Quản Lý và Giáo dục Alexandria năm 1992 Bản Tiếng Anh A Different Kind of Classroom Teaching with Dimensions for Learning đã đưa ra năm định hướng trong dạy học là Tạo bầu không khí và sự nhận thức tích cực trong lớp học; Cung cấp và tổng hợp kiến thức; Mở rộng và tinh lọc kiến thức; Sử dụng kiến thức một cách hiệu quả và Phát triển thói quen tư duy. Thực chất của việc vận dụng năm định hướng này trong quá trình dạy học là việc lấy HS làm trung tâm, trong quá trình học HS được rèn luyện năng lực tự mở rộng và tinh lọc kiến thức, rèn luyện các thói quen tư duy. Đây chính là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển NLTH cho HS. Tác giả Taylor, trong công bố số ED395287 của ERIC năm 1995, “Tự học – Một ý tưởng thích hợp nhất cho học sinh THPT” bản tiếng Anh “Self- directed learning Revisting an idea most appropriate for middle school student”, trong công bố ông đưa ra những biểu hiện của người có NLTH và xác nhận người TH là người có động cơ học tập và bền bỉ, có tính độc lập, kỉ luật, biết định hướng mục tiêu và có KN hoạt động phù hợp [117]. Hội đồng quốc tế Jacques Delors về giáo dục cho thế kỷ XXI trong báo cáo “Học tập, một kho báu tiềm ẩn”1996 gửi UNESCO, khẳng định xu thế lớn toàn cầu hóa, kéo theo hàng loạt căng thẳng cần phải khắc phục. Báo cáo này đã nêu Học suốt đời là một trong những chìa khoá nhằm vượt qua những thách thức của thế kỷ XXI, với đề nghị gắn nó với 4 trụ cột giáo dục học để biết, học để làm, học để chung sống và học để làm người, hướng về xây dựng một xã hội học tập. Quan niệm mới “học tập suốt đời một động lực xã hội” sẽ giúp con người đáp ứng những yêu cầu thế giới thay 12 đổi nhanh chóng. Điều này thể hiện những đòi hỏi chẳng những có thật mà còn đang ngày càng mãnh liệt hơn. Không thể thỏa mãn những đòi hỏi đó được, nếu mỗi con người không học cách học. Học cách học chính là học cách tự học. Trong cuốn “TH – Lí luận và thực tiễn” của tác giả Sandra Kerka 1999, cho rằng quan niệm sai lầm lớn nhất là cố gắng để nắm bắt được bản chất của TH trong một định nghĩa duy nhất. Tác giả cho rằng cho dù nghiên cứu hay thực hành, học cá nhân hay học nhóm, mỗi một cá nhân người học có phương pháp, có năng lực riêng biệt – chính sự riêng biệt ấy cho thấy NLTH và việc TH của mỗi cá nhân là khác nhau. Công trình “Học tập một cách thông minh” của Michael Shayer và Philip Adey, NXB viện Đại học mở Buckingham, 2002 Bản tiếng Anh Learning Intelligence đã đưa ra nhiều biện pháp giúp HS học tập một cách thông minh. Các tác giả chú trọng vào tìm hiểu nhu cầu, mong muốn của HS từ đó đưa ra những gì cần giúp đỡ các em trong quá trình tự học. Bên cạnh đó Michael và Phillip còn quan tâm đến những giao tiếp của HS khi hoạt động nhóm, thông qua những ghi chép về các đoạn hội thoại của các em có thể kết luận mức hiểu bài cũng như mức độ tích cực của HS khi tự học. Richard Smith, giáo sư tại Đại học Warwick, trong cuốn sách “Tự học”, của nhà xuất bản Đại học Oxford 2008, ông lại cho rằng TH có nghĩa là người học tự chủ. Theo ông đây không hẳn là một phương pháp trong dạy học mà là một mục tiêu quan trọng của giáo dục. Ý tưởng về tự chủ của người học không phải là mới, ông còn gọi thuật ngữ này với cách gọi khác như Cá nhân hóa, người học độc lập. Điều này có ý nghĩa là người học phải có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm và ra quyết định đối với việc học của mình. Tác giả James với công trình “Những phẩm chất của người GV hiệu quả”, NXB Giáo dục 2011, người dịch Lê Văn Canh đã nhấn mạnh đến việc GV tạo lập một môi trường học tập hiệu quả cho HS, trong đó có việc khuyến khích và phát triển NLTH đáp ứng những nhu cầu cá nhân của các nhóm HS chuyên biệt trong lớp học. Ông chú trọng việc hỗ trợ các hoạt động tích cực của HS thông qua thủ thuật đặt câu hỏi và thảo luận. Công trình “Nghệ thuật và khoa học dạy học”, NXB Giáo dục năm 2011, của nhà giáo dục học nổi tiếng người Mĩ Robert GS. Nguyễn Hữu Châu dịch lại đề cập đến việc hình thành NLTH cho HS thông qua việc trả lời các câu hỏi Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng Tự học cho học sinh môn Lịch sử 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênMục lục Trang đầu. 2 Lí do chọn đề tài. 2 đích nghiên cứu 2 Đối tượng nghiên cứu. 3 Phương pháp nghiên cứu. 3 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 3 Cơ sở lí luận. 3 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 6 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệmđối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 17 3. Kết luận, kiến nghị. 18 1. MỞ ĐẦU do chọn đề tài Hiện nay, các tiết học Lịch sử nói chung và Lịch sử Việt Nam nói riêng được tiến hành một cách sinh động nhờ có sự quan tâm đầu tư cho soạn giảng, đa dạng hóa hình thức tổ chức hoạt động cho học sinh trên lớp, đặc biệt là những bài giảng điện tử có nhiều kênh hình phong phú. Tuy nhiên, các tiết học này đa số là từ sự chuẩn bị từ các thầy cô mà chưa có sự chuẩn bị của học sinh. Vì vậy đa số học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, điều này không những không phát triển được tư duy của học sinh, mà ngược lại còn đẩy học sinh vào thế ỷ lại, mau quên dẫn đến thờ ơ với lịch sử, kể cả lịch sử dân tộc. Đặc biệt trong thời gian gần đây, các cơ quan truyền thông đang nêu lên một thực trạng mà cả xã hội quan tâm, đó là sự xuống cấp của bộ môn lịch sử trong ngành giáo dục Thái độ thờ ơ của học sinh đối với môn lịch sử và kết quả trong các kì tuyển sinh quá thấp, hàng ngàn bài thi môn lịch sử của học sinh không có điểm điểm 0, những bài thi “cười ra nước mắt”... Thực trạng đó, khiến tôi suy nghĩ nhiều, làm sao để khắc phục tình trạng đó và nâng cao nhận thức, kết quả học tập cho học sinh trong học tập lịch sử. Một thực tế đã mở ra một cơ hội thành công rất lớn cho cả người dạy và người học lịch sử. Đó là phải để cho người học chủ động tiếp thu kiến thức thông qua các nguồn tư liệu khác nhau. Từ đó dẫn đến yêu cầu phát triển kĩ năng tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức của người học là rất lớn. Vì vậy người dạy phải có phương pháp để phát triển kĩ năng tự học trong học tập lịch sử cho HS. Qua kinh nghiệm công tác giảng dạy môn lịch sử và tìm hiểu thực tế, tôi mạnh dạn quyết định viết đề tài “ Kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng Tự học cho học sinh môn lịch sử 7”, nhằm tạo cảm hứng học tập cho học sinh, có biện pháp giúp đỡ các em phát triển kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách hiệu quả, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và vị trí của môn lịch sử trong xã hội. đích nghiên cứu Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng + Quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau. + Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp + Phân tích, so sánh, đánh giá các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. + Báo báo những kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,.. + Có trách nghiệm với bản thân, gia đình và đất nước. Với các kĩ năng trên nhằm tránh lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện khả năng và thói quen tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tạo hứng thú trong học tập cho HS. Qua đây HS chủ động tìm tòi, khám phá, phát hiện, rèn luyện và xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực, phẩm chất. Học để đáp ứng những yêu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai.[3] tượng nghiên cứu Học sinh khối 7 trường THCS Quảng Long. pháp nghiên cứu Trong việc thực hiện nghiên cứu một vấn đề - đề tài, một sự vật hiện tượng chúng ta cần thực hiện nhiều phương pháp, trong đề tài này tôi cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như Tìm hiểu, điều tra thực tế, thống kê, phân tích, đánh giáNhững phương pháp này đã góp phần rất lớn cho tôi hoàn thành đề tài này.[4] 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Cơ sở lí luận Khái niệm a. Khái niệm kỹ năng Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn Từ điển tiếng Việt. Có nhiều định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Các định nghĩa thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm của mỗi cá nhân . Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng tri thức khoa học vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng. Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết kiến thức hoặc kinh nghiệm nhằm tạo ra kết quả mong đợi.[3] b.. Khái niệm tự học Người ta cũng có nhiều quan niệm về tự học, có người cho rằng Tự học là học riêng một mình ? ... Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình học tập hoặc hợp tác với bạn nhóm học, không có sự giảng dạy một cách trực tiếp của giáo viên...tự bản thân tìm tòi, lao động bằng tri óc để nắm bắt, hiểu một vấn đề, một sự vật hiện tượng... Vậy, Tự học là quá trình tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh tri thức.[3] c. Khái niệm kỹ năng tự học Từ hai khái niệm trên, chúng ta thấy rằng kỹ năng tự học là khả năng làm chủ các hoạt động học tập của bản thân người học một cách đúng đắn khoa học để đạt hiệu quả mong đợi, như kỹ năng lập được kế hoạch tự học- thời gian địa điểm học hợp lý, kỹ năng đọc sách, nghe giảng, ghi chép bài... người học xác định được mục tiêu, mục đích, phương pháp học tập một cách hợp lý và đạt hiệu quả cao. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm a. Thuận lợi Hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội, người giáo viên cũng như học sinh có điều kiện tiếp thu nhiều nguồn thông tin truyền hình, báo chí, Internet, các tư liệu lịch sử phong phú, đa dạng và các phương tiện bổ trợ cho công tác dạy và học. Trong quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là phía nhà trường đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người giáo viên hướng dẫn, truyền đạt kiến thức cho học sinh. Đa số học sinh, phụ huynh cũng thấy được tầm quan trọng của việc học tập để phục vụ cho tương lai, cho nên 1 số học sinh cũng có ý thức cao trong việc học tập và phụ huynh cũng lo lắng quan tâm đến việc học của con cái nhiều hơn. b. Khó khăn Cùng với những thuận lợi như đã nói ở trên, thì trong công tác giảng dạy tôi cũng nhận thấy được nhiều khó khăn,bất cập, đó là nguyên nhân dẫn đến chất lượng của bộ môn lịch sử ngày càng sa sút. Tuy nhiên, trong đề tài này tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn một số nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến tình trạng đó. Thứ nhất, trong nhận thức chung, chúng ta còn xem nhẹ môn học lịch sử, coi môn lịch sử là “môn phụ”- cho nên học sinh chưa thật sự ý thức trong việc học tập môn học này. Thứ hai, chương trình học và việc giảng dạy bộ môn Lịch sử còn nhiều vấn đề tồn tại chúng ta thấy rằng từ sau đổi mới chương trình và sách giáo khoa được áp dụng từ năm học 2006-2007 của Bộ Giáo dục và đào tạo thì “dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít... dẫn đến phương pháp giảng dạy của giáo viên còn ít chú ý đến rèn luyện phát triển khả năng tư duy độc lập của học sinh. Thứ ba, nhiều giáo viên bộ môn lịch chưa thật sự tâm huyết với nghề. Thứ tư, từ những nguyên nhân dẫn đến học sinh “chán” - không hứng thú với môn lịch sử, học lịch sử chỉ là để đối phó trong thi cử, nên đa số học sinh, học lịch sử theo phương pháp “thuộc lòng”, “máy móc”... và còn nhiều nguyên nhân khác nữa. Chính những vấn đề đó mà có những bài thi của học sinh “cười ra nước mắt”, những bài thi điểm 0... còn nhiều, đặc biệt trong kì thi THPT Quốc gia năm 2015 có cụm thi chỉ có một hoặc hai thí sinh dự thi môn Lịch sử. Chứng tỏ học sinh phần lớn chưa thực sự đam mê tìm hiểu môn Lịch sử. Ở trường THCS Quảng Long cũng không nằm ngoài thực trạng đó. Năm học 2016-2017 tôi thử nghiệm không áp dụng đề tài này trong giảng dạy thì tôi thấy học sinh chưa hứng thú trong học tập, khó nhớ nội dung các kiến thức, hoặc có những học sinh do chăm chỉ mà nhớ thì các em cũng không nhớ lâu. Kết quả thực nghiệm như sau Lớp Sĩ số Giái Kh¸ TB YÕu Km SL % Sl % SL % SL % SL % 7A 35 6 17,1 10 28,6 15 43,2 4 11,4 0 0 7B 36 1 2,8 9 25 20 55,6 6 16,6 0 0 c. Sự cần thiết phải phát triển kỹ năng tự học của học sinh trong nhà trường phổ thông. Trong xu thế phát triển của thời đại và công cuộc cải cách giáo dục của Bộ Giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục hiện nay xác định học sinh là trung tâm, là người chủ động tích cực và sáng tạo, người giáo viên chỉ đóng vai trò là người điều khiển hướng dẫn học sinh học tập. Cùng với những bất cập mà tôi đã trình bày ở phần thực trạng về chương trình trình học lịch sử hiện nay “dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít... Chính vì thế mà người giáo viên dạy học môn lịch sử không thể truyền đạt cho học sinh một lượng kiến thức “khổng lồ” được... mà chỉ có một trong hai cách -Một là, giáo viên đọc cho học sinh ghi chép toàn bộ kiến thức cho học sinh- theo chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ Giáo dục ban hành. -Hai là, giáo viên giữ vai trò là người hướng dẫn học sinh tự học-tự tìm hiểu là chính; chỉ giảng giải phân tích một số nội dung trọng tâm cần thiết. Tuy nhiên cách thứ nhất là đi ngược lại với xu thế phát triển của khoa học giáo dục hiện đại và hướng dẫn chỉ đạo của Bộ Giáo dục, vậy nên người giáo viên phải luôn xác định học sinh là trung tâm còn mình là người hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu chiếm lĩnh tri thức. Nhà giáo dục học Usinxki nói rằng “nhiệm vụ chủ yếu của thầy giáo không phải là truyền đạt kiến thức mà dạy cho học sinh biết suy nghĩ ”.[4] Như vậy, vấn đề tự học của học sinh là rất quan trọng vì đó là một khâu trong một quá trình thống nhất của việc dạy học, nhằm phát huy năng lực độc lập tư duy của các em trên lớp cũng như ở nhà. Điều này xuất phát từ nguyên lý giáo dục gắn nhà trường với đời sống. Với việc xác định học sinh là trung tâm, giáo viên là người điều khiển, hướng dẫn học sinh thì người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, đó là người giáo viên phải nắm vững kiến thức của toàn bộ chương trình và phải lập được kế hoạch giảng dạy khoa học mang tính bao quát và cụ thể- đặc biệt là giáo án trong từng tiết dạy... d. Một số lưu ý khi học sinh tự học Việc tự học của học sinh là rất quan trọng và đóng vai thành bại kết quả học tập của người học. Tuy nhiên, khi mới áp dụng cách học này học sinh còn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ và nhiều khi cảm thấy không hiệu quả bằng cách học truyền thống . Cho nên, trong quá trình tự học, học sinh cần lưu ý một số vấn đề. - Trước hết, học sinh cần nắm rõ thế nào là tự học; tự học là một chu trình 3 giai đoạn Tự nghiên cứu, tìm tòi- Tự thể hiện- Tự kiểm tra và điều chỉnh. Chu trình này thực chất là con đường phát hiện vấn đề, định hướng cách giải quyết và giải quyết vấn đề học tập. - Thứ hai, học sinh cần xác định mục tiêu, nội dung học tập. Mục tiêu là cái đích chúng ta muốn đạt được, từ đó chúng ta mới xác định được nội dung cần học và xây dựng phương pháp học tập. Chỉ khi nào xác định được mục tiêu-mục đích thì học mới hiệu quả. - Thứ ba, học sinh cần xây dựng được kế hoạch học tập một cách khoa học rõ ràng và cố gắng thực hiện đúng kế hoạch. - Thứ tư, học sinh phải có phương pháp, cách học hiệu quả. Phương pháp đúng đắn là chìa khóa đi tới thành công trong học tập. giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Trong đề tài này tôi xin đưa ra một số biện pháp để rèn kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử cho học sinh. a. Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt các ý bằng ngôn ngữ của mình. Khi học bài học sinh không nên học nguyên văn trong sách giáo khoa, hoặc nội dung bài học mà giáo viên truyền thụ ở lớp... Cách học như vậy mang tính “máy móc” còn gọi là học “thuộc lòng”, dẫn đến nặng nề, khó hiểu và khó nhớ. Để nhớ được kiến thức cơ bản, các em nên kết hợp sách giáo khoa, bài giảng của giáo viên, vở ghi... Trước hết, học sinh cần phải nhớ các phần, mục chính rồi sau tìm xem mỗi phần, mục ... gồm mấy ý chính rồi diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình để học. Học sinh chỉ cần nhớ “ý” chứ không cần thiết nhớ “văn” có nghĩa học sinh không nhất thiết phải diễn đạt nói và viết giống hệt như sách giáo khoa hoặc như lời giảng của thầy cô, miễn sao đúng là được. [5] Ví dụ 1 Bài 11 Lớp 7 Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống 1075-1077. Đây là bài học có nhiều mốc thời gian và sự kiện. Vì vậy sẽ rất khó khăn cho học sinh để nhớ và học bài học. Cho nên giáo viên chia học sinh thành các cặp đôi và yêu cầu các cặp lập bảng thống kê, chia thành 2 cột cột thời gian- cột sự kiện. Sau khi hiệu lệnh thời gian kết thúc cặp nào xong trước sẽ được trình bày GV chấm điểm và ưu tiên được công 1 điểm thưởng xong trước; còn lại các cặp khác đối chiếu với kết quả của bạn để chấm điểm cho cặp của mình. Ví dụ 2 Đối với các bài học về tình hình kinh tế các triều đại Bài 9 Nước Đại Cồ Việt thời Đinh Tiền Lê Tiết 2; bài 12 Đời sống kinh tế, văn hóa ; bài bài 13 Nước Đại Việt ở thế kỉ XIII Tiết 2 - Những bài này đều có đặc điểm chung là nêu tình hình kinh tế Nông nghiêp, thủ công nghiêp, thương nghiệp. - Để học tốt những bài học này học sinh chỉ cần nắm được các qui luật sau + Kinh tế nông nghiệp Biện pháp của nhà nước Thủy lợi, khai hoang.....; kết quả đạt được. + Thủ công nghiệp Thủ công nhà nước, thủ công truyền thống trong nhân dân. + Thương nghiệp Nội thương buôn bán trong nước, Ngoại thương buôn bán với nước ngoài. Trên cơ sơ các ý cơ bản đã chọn, học sinh tập diễn đạt theo ngôn ngữ của mình. Khi mới học theo phương pháp này học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn như trình bày dài dòng, vấp váp và có khi thiếu chính xác, có thể diễn đạt sai kiến thức... Tuy nhiên, khi đã tập học theo cách này nhiều, thuần thục trở thành kỹ năng thì rất dễ học, dễ nhớ và nhớ lâu. Khi học tập bằng phương pháp này học sinh cũng cần tự tổ chức các buổi học nhóm- chỉ cần hai học sinh truy bài cho nhau để kiểm tra nhau và tự điều chỉnh. b. Sơ đồ Trong phương pháp học Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt theo ngôn ngữ của mình, học sinh tìm ý cơ bản sau đó có thể sơ đồ hóa, công thức hóa ... đơn vị kiến thức cho ngắn gọn, đơn giản... tránh gây nhiễu giữa những đơn vị nội dung kiến thức gần giống nhau. Khi sử dụng học bài bằng phương pháp này người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, cần hướng dẫn cụ thể cho học sinh lập sơ đồ... Những nội dung phức tạp hoặc các giai đoạn lịch sử thì giáo viên có thể cung cấp sẵn cho học sinh rồi hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu và phát biểu... Ví dụ Bài 12 Đời sống kinh tế văn hóa Tiết 2; Bài 15 Sự phát triển kinh tế và văn hóa nhà Trần Tiết 1; Nước Đại Việt thời Lê sơTiết 2 Khi dạy về các giai cấp, tầng lớp trong xã hội giáo viên có thể yêu cầu học sinh lập sơ đồ, sau đó phát triển các ý. Quý tộc NDCX Nô lệ Vua Quan sát sơ đồ học sinh kết hợp sách giáo khoa và lời giảng của giáo viên... học sinh có thể biết được xã hội phong kiến nước ta chia thành các giai cấp, tầng lớp nào Nông dân là tầng lớp đông đảo nhất và có vai trò to lớn; nhận đất canh tác và nộp tô thuế. Quý tộc vua, quan, địa chủ là tầng lớp bóc lột có nhiều của cải và quyền thế. Nô lệ Số lượng không nhiều, chủ yếu phục vụ, hầu hạ tầng lớp quý tộc. Bên cạnh việc lập sơ đồ, công thức chúng ta còn có thể lập dàn ý theo dạng cành cây, lập niên biểu, biểu đồ ....Có thể nói rằng, áp dụng phương pháp dạy học này giúp học sinh có thể độc lập tư duy và từng bước rèn luyện kỹ năng tự học ngày càng hiệu quả hơn. c. So sánh So sánh cũng là cách học hiệu quả để ghi nhớ kiến thức, trong lịch sử có những đơn vị nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản... Học sinh có thể so sánh về đơn vị nội dung kiến thức, về sự kiện, số liệu, các nhân vật lịch sử, so sánh về thuật ngữ gần giống nhau nhưng nội dung hoàn toàn khác nhau... so sánh theo cặp phạm trù hoặc lập bảng... và điều đó giúp học sinh tránh tình trạng nhầm lẫn kiến thức trong quá trình học tập. Với cách học này, chúng ta đưa các nội dung kiến thức lại gần với nhau từ đó nhận rõ hai nội dung đơn vị kiến thức đó có điểm gì chung nhất và điểm khác biệt nào cần nhớ rõ, từ đó học sinh có thể học một mà biết được hai và đạt hiệu quả cao hơn. Ví dụ 1 Bài 5 Ấn Độ thời phong kiến, mục 2. Giáo viên chia học sinh theo nhóm Yêu cầu các nhóm lập bảng so sánh 3 vương triều khác nhau ở Ấn Độ thời kì phong kiến. Nội dung so sánh Vương triều Gup-ta Vương triều Đê-li Vương triều Mô-gôn Thời gian hình thành, kết thúc. Quốc gia lập nên Chính sách kinh tế Chính sách văn hóa Ví dụ 2 Bài 10 Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước; bài Nước Đại Việt ở thế kỉ XIII. Sau khi học xong quân đội nhà Trần giáo viên cho học sinh so sánh quân đội thời Lí với quân đội thời Trần. Triều đại Giống nhau Khác nhau Quân đội Triều Lí Quân đội triều Trần Học lịch sử có rất nhiều sự kiện khó nhớ, nhưng chúng ta nếu biết vận dụng tìm những điểm chung tương đối và đưa ra so sánh thì một số sự kiện ghi nhớ rất đơn giản. Trong thực tế có rất nhiều đơn vị kiến thức nội dung có mà chúng ta có thể áp dụng đưa vào so sánh để học một cách hiệu quả cao. d. Kênh hình Tranh ảnh, lược đồ, bản đồ...... Kênh hình bao gồm bản đồ, lược đồ, tranh ảnh lịch sử, là những phương tiện dạy học rất đặc trưng của bộ môn Lịch sử, nó giúp cho học sinh tái hiện những sự kiện, nhân vật trong quá khứ. Theo xu hướng hiện nay là giảm bớt thuyết trình của giáo viên, tạo điều kiện để học sinh học tập tích cực nên chúng được sử dụng như là một nguồn cung cấp kiến thức giúp học sinh tự tìm tòi, phát hiện những kiến thức và rèn luyện kĩ năng bộ môn chứ không chỉ để minh hoạ cho lời giảng của giáo viên. Như vậy kênh hình là đối tượng để học sinh chủ động, tự lực khai thác kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Do đó việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác tốt kênh hình trong học tập bộ môn Lịch sử là một yêu cầu cấp thiết và mang tính quyết định đến sự thành công trong dạy - học của thầy và trò. [2] Qua khai thác kênh hình, GV cần chú ý rèn luyện cho học sinh những kĩ năng - Kĩ năng quan sát, nhận xét - Kĩ năng mô tả, tường thuật - Kĩ năng phân tích, nhận định đánh giá Để rèn luyện được các kĩ năng đó, trong việc tổ chức khai thác kênh hình, giáo viên tiến hành các bước sau Bước 1 Hướng dẫn học sinh tham gia một “chuyến du lịch” bằng cách giới thiệu sơ lược và hấp dẫn những hình ảnh trong sách giáo khoa Bước 2 Nêu mục đích làm việc với tranh ảnh Bước 3 Đưa ra những câu hỏi gợi ý để học sinh có cơ sở khai thác kiến thức từ tranh ảnh. Bước 4 Tổ chức cho học sinh trả lời câu, hỏi trên cơ sở các em tự phát hiện kiến thức mới. Bước 5 Cho HS nhận xét, bổ sung và GV đi đến kết luận. Hình ảnh này có chủ đề là gì? Tranh ảnh Em có liên hệ so sánh gì với quá khứ? Dự đoán gì trong tương lai? Em thu nhận được những thông tin gì qua hình ảnh đó? Em có cảm nhận và bày tỏ gì? Cụ thể Ví dụ Bài 15 Sự phát triển kinh tế văn hóa thời Trần - Học sinh quan sát hình 35 SGK [1], để khai thác hình này học sinh cần phải - Xác định chủ đề của hình 35,36 Sản phẩm thủ công trong nền kinh tế thủ công nghiệp thời Trần. - Cảm nhận từ hình 35 Đây là những sản phẩm thủ công hết sức tinh xảo, độc đáo, hoa văn sắc nét, tinh tế. - Bày tỏ thái độ Cảm phục tài năng những người thợ thủ công trong thời kì phong kiến nhà Trần con người lúc đó chưa có sự hỗ trợ của máy móc nhưng với bàn tay khéo léo, khối óc sáng tạo họ đã làm được những sản phẩm th SKKN Một số biện pháp dạy môn Lịch sử lớp 5 theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh yêu thích môn học Lịch sử I. PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Việc dạy học lịch sử nói riêng cũng như dạy học các môn học khác vấn đề là phải giúp người học lĩnh hội được kiến thức, giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh. Trong những năm qua việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới cũng như việc đổi mới phương pháp dạy học đã khẳng định rõ hơn vai trò của người học. Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy và học, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động và bằng hành động của bản thân tư duy và thực tiễn. Sinh thời Bác Hồ đã nói “Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” Vì đã là người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử của nước nhà và đó cũng chính là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Nhưng thực tế việc dạy và học môn Lịch sử chưa đạt hiệu quả như mong muốn bởi còn gặp một số khó khăn. Từ đó trong những năm gần đây qua thực tế ở nhà trường tôi nhận thấy hầu như các em học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Lịch sử, các em còn coi nhẹ môn học này. Đặc biệt đây cũng là tiền đề vững chắc để các em học lên các cấp học trên. Vì thế trong quá trình công tác và tình hình thực tế, tôi nhận thấy ngay từ cấp tiểu học chúng ta phải gây hứng thú học môn Lịch sử mà đi đến chủ động, sáng tạo yêu thích học môn học này. Lịch sử có vai trò quan trọng như vậy, nhưng thực tế hiện nay một số học sinh không có hứng thú khi học môn học này, dẫn đến chất lượng giờ lịch sử còn hạn chế. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển nhân cách cho các em học sinh, đồng thời nâng cao năng lực sư phạm của bản thân, tôi mạnh dạn chọn môn Lịch sử để nghiên cứu. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài “Một số biện pháp dạy môn Lịch sử lớp 5 theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh yêu thích môn học Lịch sử”. Nhằm làm cho việc học tập của học sinh trở nên lý thú, gắn bó với thực tiễn. Để phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, thay đổi thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc của học sinh. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài. Mục tiêu –Nghiên cứu, áp dụng tìm ra một số biện pháp nhằm gây hứng thú cũng như phát huy tính tích cực của học sinh đồng thời nâng cao chất lượng trong dạy học môn Lịch sử ở bậc Tiểu học. -Lịch sử lớp 5 được dạy ở trường Tiểu học nhằm cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu ở các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam từ năm 1858 tới nay. Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng Quan sát sự vật, hiện tượng, thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau. Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp. Phân tích, so sánh, đánh giá các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen Ham học hỏi, ham hiểu biết thế giới xung quanh. Yêu thiên nhiên, con người, đất nước. Có ý thức hành động và bảo vệ thiên nhiên và các di sản văn hoá. Nhiệm vụ -Xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài. -Điều tra và khảo sát tình hình và chất lượng học tập của học sinh. -Đề ra biện pháp có hiệu quả giúp học sinh học tốt môn Lịch sử. Đối tượng nghiên cứu. -Đề tài nghiên cứu trong phạm vi học sinh khối lớp 5 Trường Tiểu học …………. Năm học 2015-2016. -Nghiên cứu các biện pháp giúp học sinh học tốt môn Lịch sử ở Tiểu học. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. –Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc tìm tòi và áp dụng thực nghiệm đưa ra một số biện pháp từ kinh nghiệm giảng dạy qua nhiều năm công tác để giúp học sinh Tiểu học nói chung cũng như học sinh Trường Tiểu học ………… nói riêng học tốt môn Lịch sử. Phương pháp nghiên cứu. -Phương pháp trò chuyện với giáo viên và học sinh -Phương pháp thu thập và xử lí số liệu -Phương pháp thực nghiệm -Phương pháp điều tra, khảo sát. PHẦN NỘI DUNG Cơ sở lí luận. -Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động thích tò mò, khám phá, làm việc độc lập theo hướng tích cực của mình. Nhưng khả năng nhớ lâu, xâu chuỗi, hệ thống kiến thức của các em còn mang tính hình thức. Theo thống kê hàng năm của bộ giáo dục và đào tạo thì chất lượng bài thi môn Lịch sử ở các cấp còn thấp. Các em thường nhầm lẫn kiến thức Lịch sử với những nội dung cơ bản nhất. Vậy câu hỏi đặt ra nguyên nhân là do đâu ? Có lẽ vấn đề này chúng ta cũng không nên đổ lỗi cho một cấp học nào nhưng thực tế điều đáng nói là những kiến thức cơ bản các em cũng không nắm được. Môn Lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ về truyền thống dân tộc, tự hào với những truyền thống, với những thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại, có thái độ đúng với sự phát triển của tương lai. Song làm thế nào để các em làm được điều đó là vấn đề cốt lõi mà bản thân mỗi giáo viên cần quan tâm. -Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đã được Đảng và nhà nước xác định, hoàn chỉnh, bổ sung qua các thời kì, chúng ta cần chú trọng đến quan điểm là đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước nhà. Là người có trình độ cơ bản, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, những người thông minh, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt … Con người phải được rèn luyện qua quá trình đào tạo và tự đào tạo. Hiện nay, trong quá trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là ghi nhớ và tái hiện. Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và làm bài…nhưng về căn bản đã được hướng dẫn ở lớp, nên hoạt động trí tuệ của học sinh vẫn nặng về rèn luyện trí nhớ và khả năng tái hiện. Như vậy, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng tưởng tượng, sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh của học sinh nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học. Đây cũng là vấn đề nhức nhối cho những người làm công tác giáo dục nói chung và những giáo viên trực tiếp giảng dạy nói riêng. Thực trạng. -Chương trình lịch sử lớp 5 tập trung cung cấp cho các em về một số sự kiện, hiện tượng lịch sử và một số nhân vật lịch sử theo từng mốc giai đoạn thời gian 1858- 1945 Hơn 80 năm chống thực dân pháp xâm lược; 1945- 1954 Bảo vệ chính quyền non trẻ, trường kì kháng chiến chống thực dân pháp; 1954- 1975 Xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước; 1975- nay Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước. -Tuổi trẻ bây giờ được sinh ra và lớn lên trong thời bình, dường như các em chưa quan tâm nhiều đến lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Các em chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu nguồn sử liệu về lịch sử. Ở trường tiểu học các em chỉ dành nhiều thời gian, tâm sức cho môn Toán và môn Tiếng Việt. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng của môn Lịch sử ? Đó là nỗi lo âu, trăn trở của mỗi chúng ta khi giảng dạy môn học này. -Học sử không phải để nhồi nhét vào trí nhớ một cách vô cảm những sự kiện, con số, ngày tháng, mà học sử để sống và rung động với sự kiện lịch sử. Học sử để rút ra những bài học về nhân văn, về lòng yêu nước, theo phương châm học để hiểu và hành như câu nói của Bác “ Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. -Thực tế hiện nay một số giáo viên vẫn còn coi nhẹ, chưa dành những quan tâm xứng đáng cho tiết dạy lịch sử, một số học sinh không có hứng thú khi học môn này dẫn đến chất lượng giờ học lịch sử còn hạn chế. lợi – khó khăn. Thuận lợi Trường Tiểu học ………… đóng trên địa bàn trung tâm xã …………, đường sá đi lại tương đối thuận tiện, 100% học sinh là con em tại địa phương, là một xã tương đối lớn. Số lượng trẻ em tương đối đông là nguồn nhân lực dồi dào cho lực lượng lao động trong tương lai nhưng đồng thời cũng đặt ra những thử thách về giáo dục, chăm sóc và tạo điều kiện thuận lợi phát triển cho trẻ. Sự phát triển kinh tế, xã hội của cả nước nói chung, trên địa bàn xã nhà nói riêng trong những năm qua đã tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thu hút được sự tham gia tích cực của hầu hết cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội. Các chủ trương, đường lối về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Đảng và nhà nước được cụ thể hóa. Điều kiện sức khỏe và thể chất trẻ em ngày càng được cải thiện và nâng cao. Số học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từng bước được quan tâm. Bên cạnh đó nhà trường cũng đã chú trọng đầu tư trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy học như Tranh ảnh, máy chiếu, máy vi tính …Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp. -Được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường, của các đồng chí, đồng nghiệp và đặc biệt là sự nổ lực của bản thân trong quá trình nghiên cứu. Khó khăn –Học sinh trường Tiểu học ………… chủ yếu là con em dân tộc thiểu số, tầm nhận thức còn hạn chế, gia đình học sinh chủ yếu làm nghề nông, đời sống nơi đây còn gặp nhiều khó khăn, số học sinh thuộc diện hộ nghèo chiếm khá đông, sự quan tâm của phụ huynh còn sơ sài, chưa thiết thực. Thiếu sân chơi bổ ích cho trẻ, trình độ dân trí còn thấp điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của học sinh. –Đồ dùng dạy học tuy được cải thiện song vẫn còn thiếu như băng hình đặc biệt là tư liệu Lịch sử còn hạn chế. Môi trường học Lịch sử còn nghèo nàn làm cản trở cho việc lôi cuốn học sinh trong việc yêu thích môn Lịch sử. Các em chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu nguồn sử liệu về lịch sử. Trong học tập các em chủ yếu dành nhiều thời gian, tâm sức cho môn Toán và môn Tiếng Việt. -Từ những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giờ dạy, không gây hứng thú cho học sinh và đặc biệt là tư duy trong học tập của các em bị hạn chế. Thành công – hạn chế +Thành công -Qua việc đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng, nội dung bài học. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, nắm kiến thức lâu hơn, các em đã tích cực vân dụng được các kiến thức vào bài học, thực hành. Các em hứng thú và thích học môn Lịch sử hơn trong học tập. –Các biện pháp, giải pháp mà tôi áp dụng cho đề tài đã qua thực nghiệm và khảo sát nên mang lại hiệu quả của giáo dục khá cao. Và được sự đồng tình, ủng hộ của cán bộ, giáo viên nhà trường về những đề xuất của đề tài. +Hạn chế -Xuất phát từ quy luật nhận thức của con người phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh… -Song bên cạnh đó do học sinh là con em nông thôn nên trong quá trình thực hiện ban đầu có phần hạn chế vì đồ dùng dạy học chưa phong phú. Đa số các em chưa yêu thích môn học này. -Từ những vấn đề nêu trên tôi thấy về trình độ nhận thức của học sinh hiện nay chưa cao, các em tuy nhạy bén với cái mới nhưng các em chóng quên, nếu không thường xuyên được củng cố, luyện tập thì hiệu quả đạt không cao trong học tập. Thời gian không chỉ dành riêng cho môn Lịch sử, trong quá trình nghe giảng học sinh chưa biết chọn lọc, kết hợp với ghi chép chi tiết những điều cần nhớ, tốc độ viết còn chậm, khả năng tiếp thu và thâu tóm vấn đề còn hạn chế. Mặt mạnh – mặt yếu +Mặt mạnh -Đa số giáo viên có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn và có tay nghề cao, vẫn có nhiều giờ dạy giỏi, phản ánh được tinh thần của xu thế mới. Mặc dù phần lớn giáo viên phải sống và giảng dạy trong điều kiện còn khó khăn, nhưng nét nổi bật là đều có tinh thần trách nhiệm cao, bám lớp, bám trường. -Học sinh Tiểu học hiện nay có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, óc tưởng tượng khá phong phú đó là tiền đề tốt cho việc phát triển nâng cao tư duy trong học tập. -Bản thân tôi là giáo viên có thời gian công tác giảng dạy đã lâu năm, nên kinh nghiệm giảng dạy khá phong phú, vì thế việc tìm ra biện pháp để phục vụ cho đề tài là tương đối thuận lợi. Các biện pháp mà tôi đưa ra đã được thực nghiệm tại trường Tiểu học ………… mang lại hiệu quả khá cao. Không những thế lại nhiệt tình trong công tác, có chí cầu tiến thích khám phá, tìm hiểu. Bên cạnh đó học sinh rất thích cái mới, cái lạ và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh. Chuyên môn tổ chức nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Ngoài ra nhà trường cũng như Liên đội thường tổ chức một số cuộc thi như Nhà sử học nhỏ tuổi, em yêu Tổ quốc Việt Nam… Đã mang lại hiệu quả cao trong công tác dạy học Lịch sử, không những thế qua những hình ảnh trực quan như tên đường, tên trường, tên chi đội .. cũng gắn liền với nhân vật lịch sử, vì thế thông qua đó các em đã hiểu được phần nào về lịch sử nước nhà, những vấn đề đó cũng góp phần không nhỏ đến sự thành công của đề tài. +Mặt yếu -Trong quá trình dạy học, một số giáo viên chưa đổi mới phương pháp dạy học, dạy học còn theo kiểu truyền thống, giáo viên thiên về giảng giải, truyền thụ, thậm chí nhồi nhét kiến thức, học sinh lắng nghe một cách thụ động, ghi nhớ máy móc. Chính vì thế nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải, truyền đạt…làm thế nào cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, với tâm sinh lí lứa tuổi là điều quan trọng. Nhưng nhìn chung chưa mang lại hiệu quả cao do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Cụ thể học sinh cũng như phụ huynh chưa quan tâm đến nhiều môn học này. -Để gây hứng thú học tập và giúp học sinh có khả năng nhớ lâu, hệ thống kiến thức tốt giáo viên cần đầu tư và đưa công nghệ thông tin bài giảng điện tử vào trong dạy học thì hiệu quả đạt cao hơn. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến đề tài -Học Lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Khi nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên người ta có thể trực tiếp quan sát chúng trong thiên nhiên hoặc trong phòng thí nghiệm nhưng đối với học sinh vùng nông thôn như trường tôi thì điều đó quá xa vời. Các em chủ yếu chỉ tái tạo Lịch sử qua lời kể của thầy cô giáo, qua tưởng tượng điều đó ảnh hưởng đến sự lĩnh hội kiến thức lịch sử bị hạn chế. -Phương pháp dạy học ít đổi mới của giáo viên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp thu bài của học sinh. Học sinh chưa coi trọng môn lịch sử như Toán hay Tiếng Việt nên đầu tư cho môn học này còn ít. -Thực tế chất lượng học sinh trong lớp chưa thực sự đồng đều một số em còn xem nhẹ môn học này. Hơn nữa thời gian học tập các môn học với lượng kiến thức nhiều nên việc học Lịch sử đối với các em chưa thực sự chú trọng. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra. -Thực trạng cho thấy, đầu năm học khi tôi nhận lớp, chỉ có khoảng hơn 60% học sinh hứng thú, thích học môn Lịch sử. -Trước khi thực hiện đề tài này, trong lớp có 18/29 HS yêu thích, hứng thú học môn Lịch sử. chiếm 62%. 5/29 HS học vì yêu cầu của thầy cô,chiếm 17%. 6/29 HS chưa hứng thú học môn lịch sử, chiếm 21%. -Như vậy qua tìm hiểu thực trạng chúng ta nhận thấy rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh ngại học Lịch sử nhưng theo tôi phải thẳng thắn nhìn nhận rằng -Phương pháp dạy học của giáo viên chưa thật sự đổi mới. Trong hội giảng của trường hầu như giáo viên không tham gia hoặc đăng kí dạy môn Lịch sử. -Trang thiết bị cũng như băng hình, tài liệu về sử học còn hạn chế. Giáo viên ít đầu tư làm đồ dùng cho môn học mà học sinh chủ yếu được học chay. -Quan niệm về vị trí môn học của phụ huynh và học sinh còn sai lệch. -Nhà trường chưa tổ chức nhiều các hội thi hay hoạt động ngoài giờ lên lớp có kiến thức sử học. -Kiến thức về sử học của một số giáo viên còn hạn chế nên khi lên lớp không mở rộng cho học sinh thêm kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa. -Vậy để giúp học sinh học tốt môn Lịch sử đòi hỏi trước hết giáo viên cần có kiến thức Lịch sử chuyên sâu. Thiết kế bài giảng sinh động và mới mẽ trong từng tiết dạy, sử dụng giáo án điện tử vào tiết dạy, luôn sưu tầm, cập nhật tài liệu, kiến thức Lịch sử thường xuyên qua thông tin đại chúng, trong tiết dạy phải biết phối hợp các phương pháp dạy học có hiệu quả. Ngoài ra, tôi luôn yêu cầu học sinh phối hợp giữa lí thuyết và thực hành. Trong dạy học môn học này, tôi sử dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp và các hình thức dạy học, trong đó chú trọng phát huy năng lực chủ động sáng tạo nơi các em, ví dụ Ở bài 6 lịch sử 5 “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”, nội dung của bài học này khá gần gủi với các em, tôi giao nhiệm vụ cho các em sưu tầm tư liệu về tiểu sử của Bác, trao đổi trình bày trong nhóm và trước lớp. Đây chính là cách giúp học sinh chủ động tiếp cận kiến thức thông qua sự dẫn dắt của giáo viên. Khi tiến hành hoạt động dạy học, tôi còn dựa trên trình độ thực tế của lớp mà lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhất. Trong mỗi bài dạy tôi luôn xây dựng một hệ thống câu hỏi đi từ dễ đến khó. Qua đó, giúp tôi lựa chọn phương pháp đàm thoại, vấn đáp hay thảo luận nhóm, trao đổi…theo hình thức cá nhân, để giải quyết vấn đề được đặt ra. Giải pháp, biện pháp BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ TẢI BẢN WORD Xem thêm sáng kiến kinh nghiệm khác Giáo viên dạy Lịch sử lo lắng?Chương trình GDPT mới sẽ được bắt đầu triển khai từ năm học 2022-2023 đối với lớp 10, áp dụng cuốn chiếu cho những năm học tiếp theo với lớp 11 và 12. Thay vì 13 môn như hiện nay, học sinh sẽ chỉ học 12 môn, gồm 7 môn bắt buộc và 5 môn tự môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc gồm Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục thể chất, Giáo dục quốc phòng và an ninh, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, Nội dung giáo dục của địa môn học được chọn từ 3 nhóm môn học mỗi nhóm có ít nhất 1 môn. Đó là nhóm môn Khoa học xã hội Lịch sử, Địa lý, Giáo dục Kinh tế và Pháp luật; nhóm môn Khoa học tự nhiên Vật lý, Hóa học, Sinh học; nhóm môn Công nghệ và Nghệ thuật Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật.Ảnh minh họa. nguồn InternetTại hội nghị trực tuyến với sự tham dự của lãnh đạo UBND, Sở GD-ĐT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bàn về việc chuẩn bị điều kiện triển khai chương trình giáo dục phổ thông, nhiều giám đốc Sở băn khoăn rằng khi học sinh tự chọn môn học liệu có ảnh hưởng đến công việc của giáo số liệu thống kê, trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020, phổ điểm môn Lịch sử không cao. Theo đó, có thí sinh dự thi môn Lịch sử thì số thí sinh có điểm từ 1 trở xuống là 111 chiếm tỷ lệ 0,02%, số thí sinh đạt điểm dưới trung bình là chiếm tỷ lệ 46,95%.Trong đó điểm trung bình là 5,19 điểm, điểm trung bị là 5 điểm, điểm số có nhiều thí sinh đạt được nhất là 4,5 điểm. Và chỉ có 371 thí sinh đạt điểm 10 trong bài thi môn lịch sử của kỳ thi THPT Khương Quang Sự Thái Bình, giáo viên dạy Lịch sử đã nghỉ hưu cho biết, môn Lịch sử vẫn luôn được coi trọng nhưng học sinh hiện nay học sinh không còn nhiều hứng thú với môn học này nữa mà có nhiều lựa chọn theo hướng lựa chọn này phần nhiều đến từ sự định hướng nghề nghiệp sau này của cá nhân các em và gia đình. Chỉ những em xét tuyển đại học khối C mới lựa chọn môn Lịch sử. Thực tế, nhiều học sinh chia sẻ học Lịch sử chỉ đủ điểm qua môn hoặc đủ điểm đỗ tốt nghiệpCô Trần Thị Hoa, giáo viên lịch sử trường THPT Mỹ Hào Hưng Yên cho hay chương trình giáo dục phổ thông mới có sự thay đổi lớn ở bậc THPT vì có môn tự chọn và môn bắt đó, giáo viên sẽ chịu tác động rất lớn vì có môn tự chọn và không tự chọn. Việc tổ chức, quản lý trong trường học sẽ có sự thay đổi và thách thức khá lớn, không còn chủ động trong việc phân công quản lý, tổ chức mà phụ thuộc vào sự lựa chọn của học Lê Minh Ngọc, học sinh lớp 11 Long Biên, Hà Nội chia sẻ, môn Lịch sử khá hay nhưng bắt học sinh nhớ ngày tháng, từng sự kiện lịch sử, nhớ xem bao nhiêu máy bay, bao nhiêu xe tăng, bao nhiêu người thiệt mạng trong trận đánh… khiến học sinh sợ hãi nhất trong các kỳ thế, trong chương trình giáo dục mới, Lịch sử là môn tự chọn thì chắc chắn sẽ không có nhiều bạn chọn môn học này mà sẽ tập trung cho những môn xét tuyển đại lịch sử của học sinh Trường Tiểu học Phú La quận Hà Đông, Hà Nội. Ảnh Bá Hoạt - Hà Nội mớiĐổi mới giảng dạy môn Lịch sửMục tiêu chính và điều mà chúng ta thật sự hướng tới không phải là việc các em học sinh có quyền chọn môn học Lịch sử hay không mà là làm thế nào để khiến các em có hứng thú với giờ học Lịch sử. Nếu chúng ta vẫn bắt học sinh nhớ máy móc như một cái máy tính thì học sinh sẽ rất khó có thể yêu thích học môn học nhà nghiên cứu Lịch sử nổi tiếng, Vũ Minh Giang nhận định, bản thân môn Lịch sử rất có sức hấp dẫn nhưng trong một thời gian dài nền giáo dục của chúng ta tiếp cận nội dung nên dạy cụ thể, diễn biến, ngày, tháng… nên học sinh rất sợ vì khó nhớ."Chúng ta đã và đang dạy Lịch sử theo lối không đối xử với nó như một môn khoa học nên cứng nhắc, giáo điều, mất tính khách quan, học thuộc lòng quá dạy môn Lịch sử hiện nay tương đối nghèo nàn, khô cứng, trong khi môn học này rất cần bổ trợ bằng nhiều hình thức sinh động, hấp dẫn hơn." - Vũ Minh Giang nhìn một giáo viên lịch sử đã nghỉ hưu nhưng thầy Khương Quang Sự vẫn rất tâm huyết với môn học. Nói về "phương cách" thu hút học sinh yêu thích hơn môn Lịch sử, thầy Khương Quang Sự chia sẻ, chương trình mới có nhiều thú vị, phù hợp cho học sinh muốn khám học thể hiện sự đa dạng trên các lĩnh vực hay những vấn đề đặc trưng. Đặc biệt, điểm mới trong chương trình giáo dục mới, môn Lịch sử cần chú ý trong đổi mới phương pháp và đánh giá học sinh."Tôi không cho rằng, với những đổi mới về phương pháp giảng dạy và yêu cầu của chương trình mới mà học sinh lại không chọn Lịch sử. Tuy nhiên, điều tôi băn khoăn nhất là liệu giáo viên có thể dạy lịch sử hay như chương trình dự thảo đặt ra cho môn này không mà thôi?", thầy Khương Quang Sự băn thực hiện mục tiêu giáo dục của Chương trình môn Lịch sử, cần coi trọng và phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã viên không đặt trọng tâm vào việc truyền đạt kiến thức lịch sử mà cần chú trọng việc hướng dẫn học sinh khai thác nguồn dữ liệu. Dạy lịch sử theo định hướng phát triển năng lực chú trọng đến các kỹ năng và coi trọng sử dụng các phương tiện trực giáo viên chia sẻ, cách tốt nhất để kéo học sinh ở lại với môn Lịch sử hay bất kỳ môn học tự chọn nào theo yêu cầu của Chương trình GDPT mới, ngay từ bây giờ, giáo viên cần không ngừng tìm tòi, sáng tạo, đổi mới phương pháp theo hướng tiếp cận học với đó, cách kiểm tra, đánh giá môn học cũng cần đổi mới để học sinh không phải "sợ" và áp lực trước những yêu cầu quá khắt khe khi lựa chọn môn học. Trải nghiệm sáng tạo môn Lịch sử là phương pháp học tập đang được đẩy mạnh thực hiện tại trường học. Qua đó, học sinh có cơ hội phát huy năng lực qua việc “học đi đôi với hành”, học để giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống. 1. Thế nào được gọi là học trải nghiệm sáng tạo môn lịch sử? Học trải nghiệm sáng tạo môn Lịch sử là hoạt động giáo dục đổi mới trong trường phổ thông. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được chủ động khám phá kiến thức không chỉ trong sách vở với các hình thức đa dạng. Việc này giúp giảm bớt áp lực học tập, hình thành những phẩm chất tốt đẹp và phát triển năng lực chung cũng như năng lực chuyên biệt cho học sinh. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học sinh THCS Trần Can Điện Biên tại khu di tích lịch sử Mường Phăng. 2. Tính cấp thiết của việc học trải nghiệm sáng tạo môn lịch sử Lịch sử có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục, hình thành nhân cách, lòng yêu nước cho học sinh. Dù vậy, môn học này lại không được nhiều học sinh yêu thích, thường bị xếp vào nhóm “môn phụ, học thuộc lòng”. Nguyên nhân là do phương pháp giảng dạy mang tính một chiều, khối lượng kiến thức lớn nhưng chưa đa dạng về hình thức truyền tải. Tổ chức việc học trải nghiệm sáng tạo môn Lịch sử là việc làm cấp thiết, góp phần cụ thể hoá, làm sinh động kiến thức môn học. Qua đó, học sinh được học tập trong môi trường thực tiễn, trực tiếp tham gia các hoạt động để khám phá và chiếm lĩnh kiến thức. “Phiên tòa quốc tế xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam” được sân khấu hóa với sự “nhập vai” xuất sắc của các học sinh THPT Đông Đô. 3. Lợi ích của việc học trải nghiệm sáng tạo môn lịch sử Nhiều trường học đã áp dụng phương pháp học trải nghiệm sáng tạo trong các giờ học chính khóa, hoạt động ngoại khóa và đạt được những kết quả tích cực. Ghi nhớ kiến thức dễ dàng hơn Ghi nhớ khối lượng kiến thức lớn từ lịch sử thế giới tới lịch sử Việt Nam luôn là điều không dễ dàng với bất kỳ học sinh nào. Khối lượng kiến thức lớn kéo dài từ quá trình hình thành trái đất sơ khai tới xã hội hiện đại, mỗi giai đoạn lịch sử có hàng nghìn cột mốc thời gian, nhân vật, sự kiện xảy ra,... Điều này đặt ra bài toán cho giáo viên trong việc truyền tải kiến thức sao cho dễ hiểu và học sinh trong việc hiểu sâu, nhớ lâu. Phương pháp học trải nghiệm sáng tạo môn lịch sử đã góp phần giải quyết bài toán trên. Giáo viên có thể thay đổi cách dạy môn lịch sử sinh động hơn thông qua các bộ phim hay hoạt động nhập vai,... trong các tiết học. Thông qua các bộ phim, sự kiện lịch sử được tái hiện chân thực bằng âm thanh, hình ảnh trực quan nên ghi nhớ tốt hơn so với việc đọc những câu chuyện kể lại trong sách vở. Hay với các hoạt động nhập vai diễn kịch, học sinh có cơ hội đặt mình vào bối cảnh lúc bấy giờ, suy nghĩ bằng quan điểm của nhân vật,… Từ đó, các em có thể nắm rõ bản chất của sự việc, không coi việc học như gánh nặng, tiếp nhận với niềm yêu thích thì hiệu quả học tập cũng tăng cao. Học sinh khối lớp 6, 7 của trường THCS Nam Hải trải nghiệm thực tế tại Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn. Các em có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về lịch sử địa phương và phát triển các kỹ năng cần thiết trong sinh hoạt tập thể. Phát huy tính sáng tạo Với các hình thức tổ chức đa dạng như sân khấu hóa, kể chuyện bằng tranh, đi thực tế… học sinh có cơ hội vận dụng và phát triển tư duy sáng tạo. Chẳng hạn hình thức diễn kịch lịch sử, học sinh được tự mình xây dựng kịch bản, lên ý tưởng thực hiện, chuẩn bị đạo cụ, phân công công việc… Hay hoạt động thuyết trình về nhân vật lịch sử, rất nhiều học sinh đã triển khai qua cách làm độc đáo như thiết kế profile Facebook, quay vlog kể chuyện, dựng video mutex và phát triển trên nền tảng Tiktok... Khi tiếp cận với nội dung học tập mang tính thực tiễn cao như vậy, các em sẽ nhận thấy luôn có nhiều giải pháp khác nhau cho mỗi tình huống, mỗi vấn đề cần giải quyết. Học sinh còn được khuyến khích tìm kiếm, đưa ra giải pháp độc đáo của riêng mình trong các nhiệm vụ được giao khi tham gia các tiết học lịch sử. 4. Các hoạt động học trải nghiệm sáng tạo môn lịch sử Tổ chức hoạt động học trải nghiệm sáng tạo môn Lịch sử được tiến hành với nhiều hình thức phong phú. Nó có thể diễn ra ngay tại lớp học hay thông qua hoạt động ngoại khóa. Kể chuyện lịch sử bằng tranh Kể chuyện lịch sử bằng tranh là hoạt động tái hiện lại một sự kiện lịch sử dưới dạng hình vẽ. Ở dạng cơ bản, học sinh có thể tự tạo ra các sơ đồ cây sơ đồ tư duy hoặc sử dụng tư duy và khiếu thẩm mỹ để vẽ lại các nhân vật, mô phỏng các sự kiện. Ở hoạt động này, học sinh sẽ được chia thành các nhóm và tìm kiếm tài liệu về chủ đề được giao thông qua sách giáo khoa, mạng internet… Sau đó, các nhóm sẽ kể lại câu chuyện lịch sử dưới dạng tranh vẽ, ảnh cùng thông tin minh họa và trình bày trước lớp. Với chủ đề “Các nhân vật lịch sử Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc”, học sinh khối 6, THCS Trung Nghĩa Hưng Yên đã tìm kiếm thông tin, hình ảnh và tái hiện lại câu chuyện của nữ tướng Hai Bà Trưng. Với mỗi chủ đề, học sinh không chỉ nắm được kiến thức cơ bản của môn Lịch sử mà còn biết vận dụng kiến thức các môn Địa lí, GDCD, Mĩ thuật để tiếp thu bài học. Điều này giúp các em củng cố, nâng cao khả năng kết hợp và linh hoạt vận dụng kiến thức đã học vào các tình huống học tập thực tiễn. Ví dụ với chủ đề “Các nhân vật lịch sử Việt Nam trong thời kỳ Bắc Thuộc”, học sinh khối 6 Trường THCS Trung Nghĩa Hưng Yên đã chia thành các nhóm, cùng nhau vẽ tranh, sưu tầm ảnh để tái hiện nhân vật, bối cảnh lịch sử. Kể chuyện lịch sử bằng tranh giúp khơi gợi, kích thích khả năng sáng tạo cho học sinh, giúp hoạt động học tập môn lịch sử trở nên nhẹ nhàng mà hiệu quả hơn. Việc chủ động tìm kiếm, xử lý và thuyết minh các thông tin giúp học sinh cảm nhận được công lao dựng nước của các nhân vật lịch sử Việt Nam. Từ đó, học sinh thể hiện những suy nghĩ, thái độ, việc làm cụ thể đối với việc giữ gìn, bảo vệ di tích lịch sử, xây dựng quê hương đất nước Tổ chức các trò chơi kiến thức lịch sử Với đặc trưng của bộ môn lịch sử, ở mỗi khối lớp các thầy cô giáo có thể xây dựng được một hệ thống trò chơi phong phú, đa dạng với nhiều tên gọi khác nhau, mục đích khác nhau. Hình thức tổ chức trò chơi thể vận dụng cho 1 tiết bài tập lịch sử, ngoại khóa, câu lạc bộ hoặc áp dụng để GV có thể củng cố bài học. Sau đây là một số trò chơi có thể vận dụng Điền sơ đồ trống Giáo viên chuẩn bị trước sơ đồ trống để học sinh điền nội dung. Trò chơi này dễ dàng áp dụng đối với các bài có liên quan tới tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt là chương trình lịch sử 10. Điền lược đồ trống Giáo viên chuẩn bị lược đồ, sơ đồ trống trước hoặc nhà trường có sơ đồ không màu để học sinh điền kí hiệu của một chiến dịch, một cuộc khởi nghĩa. Trò chơi lịch sử giúp bầu không khí lớp học trở nên sôi động hơn, giảm bớt áp lực học tập và tăng khả năng ghi nhớ kiến thức cho học sinh. Ô chữ bí mật Giáo viên chuẩn bị hệ thống các ô trống theo chủ đề nhân vật, cụm từ tiêu biểu….. Học sinh tìm các chữ cái thích hợp để điền vào ô trống đã cho theo yêu cầu. Theo dòng lịch sử Trò chơi này dùng vào các tiết ngoại khóa, các tiết làm bài tập lịch sử để học sinh có điều kiện chuẩn bị và có thời gian thích hợp cho khâu tổ chức. Giáo viên chọn theo chủ đề lịch sử đã được học trước đó để học sinh tìm hiểu kĩ hơn. Trò chơi có thể áp dụng sau khi học xong một chương, một giai đoạn lịch sử. Ai là người nhớ sự kiện, nhân vật lịch sử nhiều nhất Giáo viên có thể áp dụng đối với các tiết làm bài tập lịch sử, các tiết ngoại khóa, phạm vi áp dụng được ở tất cả các khối lớp. Tuy nhiên, trò chơi này áp dụng phù hợp nhất sau khi học xong một giai đoạn lịch sử, một triều đại phong kiến, một hình thái cách mạng… Tại trường THPT Trần Văn Giàu TP. Hồ Chí Minh, các bạn học sinh lớp 10 được tiếp xúc với game Lịch sử dưới dạng hỏi đáp. Khoảng 200 câu hỏi từ dễ đến khó được trình bày dưới dạng trắc nghiệm. Nếu người chơi trả lời đúng thì mới vượt được chướng ngại vật và chơi tiếp. Game có thể sử dụng được trên máy tính hoặc trên điện thoại hệ điều hành Android. Game Lịch sử là công trình nghiên cứu của 2 học sinh mê lịch sử - Cao Tấn Sang và Trương Sử Khôi Nguyên - đã đạt giải Nhất cuộc thi cuộc thi Khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học do Sở GD-ĐT tổ chức giữa tháng 1-2017. Hoạt động các trải nghiệm các nhân vật lịch sử dưới hình thức sân khấu hóa Hoạt động các trải nghiệm các nhân vật lịch sử dưới hình thức sân khấu hóa còn gọi là học Lịch sử thông qua kịch. Học sinh có thể xem các tiết mục kịch về nhân vật, sự kiện lịch sử hoặc tham gia nhập vai để thể hiện một nội dung lịch sử quan trọng. Hoạt động này giúp các em rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, xử lý tình huống, hiểu và yêu lịch sử dân tộc. Học sinh Tiểu học Lộc Thọ Nha Trang thích thú xem vở kịch “Anh hùng Thánh Gióng”. Hướng tới mục tiêu sinh động hoá môn lịch sử, CLB Lịch sử Trường THPT chuyên Lý Tự Trọng Cần Thơ đã tổ chức chương trình "Dấu ấn thời gian" với chủ đề "Anh hùng đất Việt". Các bạn học sinh có cơ hội hóa thân vào những nhân vật lịch sử như Trần Quốc Toản, công chúa An Tư, Nguyễn Trãi, vua Quang Trung, chị Võ Thị Sáu,… để hiểu thêm về bối cảnh lịch sử, ý chí, tinh thần của dân quân ta thời trước. Học sinh Trường THPT chuyên Lý Tự Trọng diễn vở "Nỗi lòng công chúa An Tư". Tham quan các di tích lịch sử, bảo tàng Tham quan các di tích lịch sử, bảo tàng là cách để học sinh “gặp lịch sử trực tiếp”. Những di tích, di vật sống cùng thời gian sẽ giúp các bạn hình dung được bối cảnh lịch sử, những sự kiện đã diễn ra, những con người đã kiên cường chiến đấu,… Trong không gian các khu di tích, học sinh được lắng nghe hướng dẫn viên kể lại câu chuyện gắn liền với các di tích, di vật. Đó có thể là quá trình hình thành công cụ bằng đá, những nền văn hóa được ghi dấu trên Trống đồng Đông Sơn,… Đồng thời, các em cũng được hướng dẫn ghi chép, chụp ảnh, quay video… để làm báo cáo sau khi buổi tham quan kết thúc. Hoạt động này không chỉ giúp học sinh mở rộng vốn kiến thức mà còn để các bạn hiểu rõ về một thời oanh liệt của dân tộc, biết trân trọng công lao của thế hệ cha anh. Đây cũng là cơ hội cho các em nhận thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của bản thân với quê hương đất nước. Buổi tham quan, trải nghiệm Lịch sử tại Cổ Loa của học sinh Trường THCS Ngoại ngữ Hà Nội gắn với bài học Nhà nước Âu Lạc Lịch sử 6 và Truyền thuyết về An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy Ngữ văn 6 Phương pháp “Sử dụng di sản văn hóa tiêu biểu tại địa phương trong dạy học Lịch sử trong các trường phổ thông” đang được Trường THPT số 2 Bảo Thắng Lào Cai triển khai. Trong chuyến tham quan Đền Thượng, Đền Mẫu, Bảo tàng tỉnh Lào Cai và cột mốc biên giới Việt- Trung, các bạn học sinh vừa được nghe câu chuyện lịch sử, vừa được quan sát các di tích, di vật được trưng bày. Sau đó, các bạn học sinh chia thành từng nhóm và cùng nhau tổng hợp thông tin theo hướng dẫn của giáo viên. Thông qua buổi tham quan cùng những thông tin mà chính mình đã tự tìm hiểu và chắt lọc, học sinh sẽ phần nào thay đổi thái độ đối với môn học Lịch sử cũng như nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ giá trị văn hóa người xưa để lại. 5. Trải nghiệm học sáng tạo môn lịch sử tại FPT Edu Trải nghiệm học sáng tạo môn Lịch sử hiện đang được triển khai tại các trường học trên toàn quốc, đặc biệt là các đơn vị giáo dục phát triển theo mô hình trường học trải nghiệm như FPT Edu. Các trường Tiểu học, THCS, THPT FPT thuộc FPT Edu đã áp dụng nhiều phương pháp dạy và học sáng tạo để giúp môn lịch sử trở nên gần gũi và dễ hiểu, dễ nhớ hơn đối với các bạn học sinh “Bất tử cùng lịch sử” “Bất tử cùng lịch sử” là phương pháp dạy và học trải nghiệm sáng tạo ứng dụng công nghệ tại Trường THPT FPT Hòa Lạc. Giờ học thường bắt đầu bằng một trò chơi trên ứng dụng Quizlet. Học sinh sẽ trả lời câu đố liên quan tới Anh, Pháp, Mỹ – những quốc gia từng diễn ra các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu để được gợi lại kiến thức từ tiết học cũ và hào hứng tiếp nhận kiến thức mới. Từ kiến thức mới tới các bài tập đều được xây dựng thành “nhiệm vụ” cho học sinh tự mình chinh phục. Ngoài tham khảo trong sách giáo khoa và ghi chép bài theo cách truyền thống, học sinh được tự do nghiên cứu tài liệu thông qua các ứng dụng trên máy tính. Bên cạnhđó, các bạn còn được thực hiện nhiệm vụ thiết kế poster, sách truyện về một chủ đề lịch sử cụ thể cho từng nhóm học sinh. Mỗi nhóm sẽ tự tạo ra sản phẩm xoay quanh một nhân vật, sự kiện lịch sử bất kỳ bằng các thao tác chèn text, hình ảnh... Phương pháp này giúp học sinh có sự chủ động hơn trong việc tiếp nhận kiến thức, còn giáo viên có thể theo dõi được toàn bộ quá trình học tập của học sinh không chỉ thông qua thành quả sau cùng. Triển lãm và thuyết trình về mô hình biển đảo Triển lãm và thuyết trình về mô hình biển đảo là phương pháp trải nghiệm môn Lịch sử được các bạn học sinh lớp 10 Trường THPT FPT Cần Thơ yêu thích. Dự án xây dựng mô hình biển đảo Việt Nam do chính tay học sinh thực hiện đã xóa đi rào cản của môn Lịch sử và phát huy tư duy sáng tạo, tinh thần làm việc nhóm cũng như ý thức bảo vệ biển đảo Việt Nam. Trải nghiệm sáng tạo môn Lịch sử giúp học sinh giảm tải áp lực học bài, phát huy năng lực tìm tòi và tinh thần làm việc nhóm. Học sinh được chia làm 33 nhóm, mỗi nhóm gồm 4 - 5 thành viên và tìm hiểu kiến thức Lịch sử Việt Nam từ thời kỳ khai sơ đến giữa thế kỉ XIX. Từ đó, các bạn sẽ thu thập, khai thác thông tin và thảo luận nhóm để xác định đề tài biển đảo của đất nước tại thời kỳ lịch sử mà mình lựa chọn. Tại buổi triển lãm, mỗi nhóm sẽ cử đại diện để thuyết minh về mô hình của mình và khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử. Qua đó, học sinh có cơ hội nâng cao các kỹ năng mềm, vận dụng và tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả hơn khi tự tay cùng nhau hoàn thành sản phẩm. Đồng thời, đây cũng là một hình thức giảng dạy có ý nghĩa nhằm nâng cao nhận thức trách nhiệm của mỗi học sinh về chủ quyền biển đảo mà Bộ môn Lịch sử mong muốn truyền tải. Học sinh được khuyến khích sử dụng các loại chất liệu tái chế nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, hướng đến sự phát triển bền vững trong định hướng giáo dục và giảng dạy. Tổ chức các hoạt động dạy và học sáng tạo môn lịch sử là điều kiện để học sinh bộc lộ khả năng, tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo và thay đổi cách nhìn nhận trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức lịch sử. Để tìm hiểu thêm thông tin về phương pháp trải nghiệm sáng tạo môn lịch sử, bạn có thể xem tại đây. Nguồn ảnh Internet, FPT Edu

hướng dẫn học sinh tự học môn lịch sử