Khi ăn chung người Việt rất ngại ăn miếng cuối cùng luôn giả vờ no rồi để nhường cho người khác. Cứ hễ trên đĩa chỉ còn lại một miếng bánh, miếng chả, miếng nem thì hiện tượng "đùn đẩy" lại xảy ra, ai cũng tránh ăn miếng cuối cùng. "Không ai nghe và cũng không ai trả lời, mọi người còn túi bụi thu gom các thứ cần thiết để cho vào một miếng "bánh đa" vừa được nhúng trong nước cùng với rau sống được vẩy lung tung ướt cả mặt người ngồi bên"- Dưới đây là bài chia sẻ của 1 vị du khách Phương Tây về văn hóa ăn cỗ của người Việt Nam. Đũa là công cụ sinh sau đẻ muộn, phức tạp hơn những "người" tiền nhiệm, và ban đầu không sinh ra để gắp thức ăn bỏ miệng. Đũa ĐÔNG THỜI NHÀ HÁN. LÀ GIAI ĐOẠN NGƯỜI TA DÙNG ĐŨA GẮP THỨC ĂN TRONG MÂM CƠM. TRƯỚC ĐÓ KHÔNG LÂU, ĐŨA MỚI CHỈ LÀ CÔNG CỤ LÀM BẾP. Với 1kg tôm sú bóc nõn, bạn chỉ nên nêm chừng 5 thìa cà phê nước mắm, 2 thìa cà phê nước cô đặc của gừng, riềng, sả và dầu gấc nguyên chất. Như vậy tôm sẽ vừa miệng ăn và có độ thơm ngon nhất định. Sau khi rang xong, bạn có thể bỏ ruốc vào lọ có nắp đậy kín, để trong ngăn mát tủ lạnh. Trẻ trâu. 25/9/22. #18. Mấy thằng bảo lùn xấu, nghèo k có gì nổi bật mà bảo ăn gái ầm ầm thì chỉ có bốc phét, ông bà t nói r, k giàu thì phải đẹp trai, k thông kinh sử phải dài 1 gang, ít nhất mày phải có 2 trong 4 yếu tố đấy thì gái nó mới thích, m có 1 trong 4 thì gái Người Nhật nói chung ko thông minh lắm,nhưng họ biết cách phối hợp làm việc với nhau.Họ giỏi ko ở những cá nhân "xuất thần". mà họ giỏi là giỏi tập thể, giỏi phối hợp, đoàn kết với nhau cùng làm việc.Họ quan niệm rằng :"Thành công của họ là do nỗ lực của cả 3AUEqN. Gắp thức ăn cho người khác - Ảnh Người gắp không biết người cùng bàn nhiều khi khó chịu nhưng không nói ra. Có người lấy đũa mình đang ăn để gắp cá, thịt... bỏ vào chén của người cùng bàn hoặc gắp rau, hải sản cho vào nồi lẩu và nhúng đũa đè rau xuống nồi. Có người lấy muỗng hoặc vá múc nước trong nồi lẩu để nêm nếm, xong lại lấy cái muỗng đó khuấy nồi lẩu rồi nếm tiếp, rồi múc lẩu cho vài người. Một số người vẫn nghĩ rằng gắp cho người, múc cho khách thể hiện sự tôn trọng người khác. Nhưng điều này hoàn toàn là võ đoán. Thử hỏi một người bệnh gút, bệnh thừa mỡ máu đang ăn kiêng, chúng ta lại gắp cho họ hải sản, thịt đỏ thì họ có ưng bụng không? ơn giản hơn, một người ăn chay trường, lại bị “phục vụ”, bị gắp cho món mặn thì cũng kỳ và khó xử. Tôn trọng hay mất vệ sinh? Các bệnh truyền nhiễm lây lan qua thực phẩm hay đồ uống là một vấn đề phổ biến, gây lo lắng và đôi khi đe dọa tính mạng con người. Tại Hoa Kỳ, Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh CDC ước tính mỗi năm có một trong sáu người Mỹ 48 triệu người bị bệnh, người nhập viện và người chết vì các bệnh lan truyền từ ăn uống. Trước đây, bộ đội ở miền Trung thường ăn đũa hai đầu, một đầu dùng để và cơm cùng thức ăn vào miệng, một đầu để gắp thức ăn. Vậy nên dân mới có câu “Vệ sinh ăn đũa hai đầu/Lấy chồng bộ đội là dâu Cụ Hồ”. Một trong những bệnh lan truyền do đường miệng này là viêm gan siêu vi A. Theo Tổ chức Y tế thế giới WHO, virút gây viêm gan A lây truyền chủ yếu qua đường phân - miệng, một người lành ăn phải thức ăn hoặc nước uống bị nhiễm mầm bệnh phân của người bệnh sẽ mắc bệnh viêm gan A. Virút cũng có thể lây truyền qua tiếp xúc vật lý gần gũi với người nhiễm, nhưng khả năng ít hơn nhiều. Cũng theo WHO, ở các nước đang phát triển với điều kiện vệ sinh môi trường kém thì hầu hết trẻ em 90% bị nhiễm viêm gan siêu vi A trước 10 tuổi. Theo Hội Khoa học tiêu hóa Việt Nam VNAGE, trên 80% dân số nước ta bị nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori. Vi khuẩn này gây ra khá nhiều bệnh của dạ dày - tá tràng như chứng rối loạn tiêu hóa, viêm dạ dày, loét dạ dày - tá tràng. Vi khuẩn H. pylori có nhiều trong nước bọt, mảng cao răng, niêm mạc dạ dày của người bệnh và lan truyền chủ yếu qua ăn uống. Do đó, để tránh lây nhiễm cần ăn chín, uống sạch, tránh các thói quen xấu như uống chung ly rượu, chấm chung nước mắm, lấy đũa mình đang ăn gắp thức ăn cho người bên cạnh... Từ những thông tin trên, có thể kết luận rằng dùng đũa mình đang ăn gắp thức ăn cho người khác là thiếu vệ sinh và có khả năng lây lan bệnh truyền nhiễm. Tránh chung đụng Mâm cơm gia đình của đa số người Việt thường chung cơm, canh, cá, thịt... nhưng chén đũa riêng. Chúng ta có thể dùng chung tô canh vá riêng, giẽ chung miếng cá, gắp chung đĩa thịt kho... nhưng chẳng ai dùng chung đũa chén cả; nếu nghi dùng nhầm thì có lẽ mọi người, kể cả tôi, sẽ thay bộ khác ngay. Và đương nhiên, nhiều người không dám ăn những món đã bị người khác khoắng lên bằng đũa đang ăn của họ. Nhờ ý thức, ngày nay việc ăn chung đũa cũng đã có phần cải thiện gắp đũa hai đầu, bố trí muỗng nĩa, vá, đũa... ở các món chung. Nhiều gia đình người Quảng tổ chức giỗ kỵ, liên hoan bằng món đặc sản mì Quảng nổi tiếng. ây thật sự là món buffet dân dã Việt Nam. Chủ nhà nấu chuẩn bị một nồi nhân lớn thịt gà, thịt bò, tôm, trứng... một lượng nước dùng thích hợp, đủ thứ rau và gia vị cần thiết. Khách khứa chỉ việc chọn loại thích dùng, lượng theo ý... người trước, kẻ sau đều thỏa mãn. Tiệc đứng kiểu này có ưu điểm một là hợp khẩu vị, nhu cầu dinh dưỡng, ai nhiều ai ít tùy chọn; hai là rất vệ sinh, tránh chung đụng đũa, chén, muỗng, nĩa và ba là tiết kiệm và hợp lý. Ăn uống bao hàm dinh dưỡng, khoa học và văn hóa. Một thức ăn ngon, hợp khẩu vị nhưng thiếu khoa học, kém vệ sinh chắc chắn sẽ không được số đông chấp nhận. Vì vậy khi ăn tiệc, liên hoan... trong trường hợp đối đế, nếu muốn chia thức ăn cho người cùng bàn, bỏ rau, thịt, cá vào nồi lẩu thì không nên dùng muỗng đũa mình đang ăn để gắp, múc mà hãy dùng mỗi người một bộ đồ ăn riêng. [poll width="400px" height="174px"]114[/poll] Mục lục Những câu ca dao châm biếm mỉa mai cuộc sống Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 1 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 2 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 3 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 4 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 5 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 6 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 7 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 8 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 9 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 10 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 11 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 12 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 13 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 14 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 15 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 16 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 17 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 18 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 19 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 20 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 21 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 22 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 23 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 24 Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 25 Ca dao châm biếm người phụ nữ Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 1 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 2 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 3 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 4 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 5 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 6 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 7 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 8 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 9 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 10 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 11 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 12 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 13 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 14 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 15 Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 16 Ca dao tục ngữ châm biếm đàn ông Bài ca dao châm biếm đàn ông số 1 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 2 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 3 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 4 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 5 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 6 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 7 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 8 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 9 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 10 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 11 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 12 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 13 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 14 Bài ca dao châm biếm đàn ông số 15 Một số câu tục ngữ, thành ngữ châm biếm mỉa mai thường gặp Chúng ta đều biết, châm biếm là thủ pháp dùng lời lẽ, tranh vẽ hay những màn trình diễn nghệ thuật sắc sảo, cay độc, thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng cá nhân và hiện tượng trong xã hội. Thế nhưng, từ xa xưa những câu ca dao tục ngữ của ông cha ta ngoài việc đúc kết kinh nghiệm, mang tính giáo dục thì còn có ý nghĩa hài hước châm biếm trước những thực trạng xã hội còn nhiều thứ bất công, ngang trái. 1. Những câu ca dao châm biếm mỉa mai cuộc sống Cuộc đời là một chuỗi ngày dài với nhiều cung bật cảm xúc khác nhau, vậy nên trước những chuyện bất công hay những thói hư tật xấu ông cha cha thường đúc kết chúng thành những câu ca dao nhằm đả kích, phê phán những vấn đề thường thấy trong cuộc sống. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 1 Còn duyên, kén cá chọn canh Hết duyên, ếch đực cua kềnh cũng vơ. Con duyên kén những trai tơ Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 2 Rượu chè cờ bạc lu bu Hết tiền, đã có mẹ cu bán hàng. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 3 Bói cho một quẻ trong nhà Con heo bốn cẳng, con gà hai chân. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 4 Hòn đá mà biết nói năng, Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 5 Công đâu ghẹo gái có chồng Như tát nước cạn, uổng công cày bừa. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 6 Còn duyên, anh cưới ba heo Hết duyên, anh cưới con mèo cụt đuôi. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 7 Nghèo mà làm bạn với giàu Đứng lên ngồi xuống nó đau cái đì. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 8 Buồn buồn ngồi đốt đống rơm Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào Khói bay lên tận thiên tào Ngọc Hoàng phán hỏi thằng nào đốt rơm? Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 9 Xưa nay thế thái nhân tình Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Xem thêm Những câu ca dao về đức tính trung thực của con người Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 10 Mai mưa, trưa nắng, chiều nồm Trời còn luân chuyển, huống mồm thế gian. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 11 Trống chùa ai đánh thì thùng Của chung ai khéo vẫy vùng, thành riêng. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 12 Muốn ăn gắp bỏ cho người, Gắp đi gắp lại, lại rơi vào mình. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 13 Thế gian chuộng của, chuộng công Nào ai có chuộng người không bao giờ. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 14 Thế gian còn mặt mũi nào Đã nhổ lại liếm làm sao thành người. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 15 Cà cuống uống rượu la đà, Chim ri ríu rít bò ra lấy phần, Chào mào thì đánh trống quân Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 16 Chập chập thôi lại cheng cheng Con gà trống thiến để riêng cho Thầy Đơm xôi thì đơm cho đầy Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 17 Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa May mà hôm ấy trời mưa Có thằng con rể đi bừa cùng trâu. Xem thêm Dự đoán thời tiết thông qua 50+ câu ca dao, tục ngữ về thiên nhiên siêu thú vị và chính xác Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 18 Con cò chết rũ trên cây, Cò con mở lịch xem ngày làm ma. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 19 Sống thì cơm chẳng cho ăn Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 20 Cây cao bóng mát không ngồi Ra ngồi chỗ nắng trách trời không mây. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 21 Số cô chẳng giàu thì nghèo Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà Số cô có mẹ có cha Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông Số cô có vợ có chồng Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 22 Xưa kia ăn đâu ở đâu Bây giờ có bí, chê bầu rằng hôi. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 23 Làm trai cho đáng nên trai Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 24 Trọc đầu mang tiếng bất lương Kìa như có tóc cũng phường gió trăng. Bài ca dao châm biếm cuộc sống số 25 Vũ trường là chốn ăn chơi Chí hòa là chốn nghỉ ngơi giang hồ. Xem thêm 40 câu tục ngữ về con người và xã hội được dùng hằng ngày, bạn có hiểu hết nghĩa? 2. Ca dao châm biếm người phụ nữ Những câu ca dao châm biếm thường có thể nói về rất nhiều sự vật, hiện tượng, con người và lẽ tất nhiên, phụ nữ cũng trở thành một đối tượng của ca dao châm biếm. Dưới đây là một số câu ca dao châm biếm về người phụ nữ Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 1 Lỗ mũi mười tám gánh lông Chồng yêu chồng bảo tơ hồng trời cho Đêm nằm thì ngáy o o Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà Đi chợ thì hay ăn quà Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm Trên đầu những rác cùng rơm Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 2 Bà Bảy đã tám mươi tư Ngồi trông cửa sổ gửi thư kén chồng. Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 3 Không chồng ăn bữa nồi năm Ăn đói ăn khát mà cầm lấy hơi Có chồng ăn bữa nồi mười Ăn đói ăn khát mà nuôi lấy chồng, Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 4 Gái đâu có gái lạ lùng, Chồng chẳng nằm cùng, nổi giận đùng đùng ném chó xuống ao. Đêm đến chồng lại lần vào, Vội vàng vác sọt đi trao chó về. Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 5 Cô kia con cái nhà ai, Mà cô ăn nói dông dài hử cô. Cô điên cô dại cô rồ, Cô ra kẻ chợ cô vồ lấy giai. Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 6 Hỡi cô má phấn môi son, Chân đi chữ bát còn toan chê chồng. Chồng cô cao ngỏng cao ngòng, Đêm đêm cô với cũng không tới nào. Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 7 Đêm đông giá ngắt như đồng, Hỡi người thục nữ phòng không lạnh lùng. Hỏi cô nay đã có chồng, Hay còn đợi khách anh hùng sứt môi. Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 8 Đàn bà yếu chân mềm tay, Làm ăn chẳng được, lại hay nỏ mồm. Xem thêm Khôn khéo hơn trong giao tiếp, ứng xử qua những câu ca dao, tục ngữ giàu giá trị! Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 9 Đàn bà chẳng phải đàn bà Thổi cơm cơm khét, muối cà cà ôi. Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 10 Bà già đi chợ cầu Đông Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng Thầy bói gieo quẻ nói rằng Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn. Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 11 Rung rinh nước chảy qua đèo Bà già tập tễnh mua heo cưới chồng. Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 12 Cầm chài mà vải bụi tre Con gái mười bảy đi ve ông già! Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 13 Củ lang nấu lộn củ mì Cháu lấy chồng dì kêu dượng bằng anh. Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 14 Chính chuyên lấy được chín chồng Vê viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi Ai ngờ quang đứt lọ rơi Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 15 Hai tay cầm hai quả hồng Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai Chỉ đâu mà buộc ngang trời Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ. Bài ca dao châm biếm phụ nữ số 16 Cái cò là cái cò kì Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô Đêm nằm thì ngáy o o Chửa đi đến chợ đã lo ăn quà. Xem thêm 30 Câu ca dao, tục ngữ về tình bạn thâm thúy và đáng suy ngẫm! 3. Ca dao tục ngữ châm biếm đàn ông Đàn ông luôn được xem là phái mạnh, luôn là người đứng ra bảo vệ phái yếu, nhưng khái niệm đó chỉ nên dành cho những người đàn ông tốt và tất nhiên không phải đàn ông nào cũng tử tế. Cùng tham khảo một số câu ca dao châm biếm về đàn ông vừa mang ý nghĩa hài hước vừa có thể nói lên được thói hư tật xấu của con người. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 1 Chồng người đánh Bắc dẹp Đông Chồng em ngồi bếp giương cung bắn gà. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 2 Chồng người cưỡi ngựa bắn cung Chồng em ngồi bếp cầm thun bắn ruồi. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 3 Chồng người bế Sở sông Ngô Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 4 Chồng người thổi sáo thổi tiêu Chồng em ngồi húp bún riêu bỏng mồm. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 5 Làm trai rửa bát, quét nhà Vợ gọi thì Dạ, bẩm bà tôi đây! Bài ca dao châm biếm đàn ông số 6 Yêu em mấy núi cũng trèo Khi em có chửa, mấy đèo cũng dông. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 7 Chớ nghe quân tử nỉ non Để rồi có lúc ẵm con một mình. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 8 Gió đưa bụi chuối sau hè Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ. Con thơ tay ẵm, tay bồng, Tay nào xách nước, tay nào vo cơm. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 9 Sông bao nhiêu nước cho vừa Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 10 Hai cô đứng lại cho đồng, Để anh đứng giữa làm chồng hai cô. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 11 Cây lê, cây lựu, cây đào Ba cây anh cũng muốn rào cả ba. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 12 Cái cò lặn lội bờ ao Hỡi cô yếm đào lấy chúng tôi chăng? Chú tôi hay tửu hay tăm Hay uống chè đặc hay nằm ngủ trưa Ban ngày thì muốn trời mưa Ban đêm thì muốn cho thừa trống canh. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 13 Làm trai cho đáng nên trai Vót đũa cho dài ăn vụng cơm con. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 14 Rượu chè cờ bạc lu bù Hết tiền, đã có mẹ cu bán hàng. Bài ca dao châm biếm đàn ông số 15 Làm trai cho đáng sức trai, Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng. 4. Một số câu tục ngữ, thành ngữ châm biếm mỉa mai thường gặp Bên cạnh những câu ca dao châm biếm về cuộc sống và con người thì các câu tục ngữ thành ngữ châm biếm cũng được sử dụng khá phổ biến. Dưới đây là một số câu tục ngữ mỉa mai châm biến những thói hư, tật xấu đáng phê phán được lưu truyền từ ngàn năm nay Ông ăn chả, bà ăn nem. Bé cậy cha, già cậy người dưng. Vạn sự khởi đầu nan. Gian nan bắt đầu nản! Cà rịch cà tang. Miệng nam mô, bụng bồ dao găm. Nêu cao nhưng bóng chẳng ngay. Ăn cây táo rào cây sung. Làm rể nhà giầu, vừa được cơm no, vừa được bò cỡi. Ăn cơm nhà nọ, kháo cà nhà kia. Ăn cháo đá bát. Bói ra ma, quét nhà ra rác. Cả vú lấp miệng em. Có sự thì vái tứ phương, không sự đồng hương không mất. Cháy nhà ra mặt chuột. Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng. Giấu đầu hở đuôi. Lấp sông lấp giếng, ai lấp được miệng thiên hạ. Lệnh ông không bằng cồng bà Những câu tục ngữ ca dao châm biếm mục đích chủ yếu là mang lại tiếng cười sảng khoái, mang tính giải trí. Tuy nhiên, ẩn sâu bên trong đó là những hàm ý xâu xa, phê phán những thói hư tật xấu của người bằng tiếng cười trào phúng, để con người ta sau khi cười sẽ phẩm tự ngẫm về chính bản thân mình. Sưu tầm Nguồn ảnh Internet muốn ăn gắp bỏ cho người là gì?, muốn ăn gắp bỏ cho người được viết tắt của từ nào và định nghĩa như thế nào?, Ở đây bạn tìm thấy muốn ăn gắp bỏ cho người có 0 định nghĩa, . Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa khác của mình CÂU TRẢ LỜI   Xem tất cả chuyên mục M là một từ điển được viết bởi những người như bạn và tôi với chuyên mục M có bài viết và những chuyên mục khác đang chờ định nghĩa. Bạn có thể đăng ký tài khoản và thêm định nghĩa cá nhân của mình. Bằng kiến thức của bạn, hoặc tổng hợp trên internet, bạn hãy giúp chúng tôi thêm định nghĩa cho muốn ăn gắp bỏ cho người cũng như các từ khác. Mọi đóng của bạn đều được nhiệt tình ghi nhận. xin chân thành cảm ơn! Liên Quan Bộ sưu tập danh ngôn mở Wikiquote Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm A[sửa] Áo gấm đi đêm An cư lạc nghiệp Ác giả ác báo Ă[sửa] Ăn cá bỏ xương Ăn cây táo, rào cây sung Ăn cây nào rào cây nấy. Ăn cháo đá bát. Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau. Ăn cơm hớt Ăn đời ở kiếp. Ăn gian nói dối. Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng. Ăn không ngồi rồi Ăn không nói có. Ăn một bát cháo, chạy ba quãng đường Ăn như tằm ăn rỗi Ăn mày mà đòi xôi gấc. Ăn miếng trả miếng. Ăn ngon mặc đẹp Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ăn cơm nhớ kẻ đâm, xay, giần, sàng. Ăn sung mặc sướng. Ăn trên ngồi trốc. Ăn trông nồi, ngồi trông hướng. Ăn thô nói tục. Ăn xổi ở thì. Ăn đằng sóng, nói đằng gió Â[sửa] Âm dương cách biệt Ân đoạn nghĩa tuyệt B[sửa] Ba chìm bảy nổi Bán anh em xa, mua láng giềng gần Bách chiến bách thắng Bầu dục chấm mắm cáy Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Biết thân biết phận Bỏ con tép bắt con tôm Báo ân báo oán Buôn ngược bán xuôi Bầm gan tím ruột C[sửa] Cả thèm chóng chán. Cái nết đánh chết cái đẹp Canh cánh trong lòng. Cạn tàu ráo máng Cạn tình cạn nghĩa Cẩn tắc vô ưu, vô áy náy. Cầu được ước thấy. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Cây ngay không sợ chết đứng. Cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Chân cứng đá mềm. Chân đăm đá chân chiêu. Chân trời góc biển Chết cha còn chú, sẩy mẹ bú dì. Chị ngã em nâng. Chim có tổ, người có tông. Chim sa cá lặn Chó chê mèo lắm lông. Chó cùng rứt giậu. Chó dữ mất láng giềng. Chó ngáp phải ruồi Chó treo mèo đậy. Chờ khát nước mới lo đào giếng Chờ lót ổ sẵn vô đẻ Chờ sung rụng Chớ thấy sóng cả mà ngã rã tay chèo. Chồng giận thì vợ làm lành. Cơm sôi nhỏ lửa rằng anh giận gì. Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm. Chủ vắng nhà gà vọc niêu tôm. Chưa biết chưa chịu Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Có công mài sắt có ngày nên kim Có kiêng có lành. Có mới nới cũ/ Có trăng quên đèn Có tật giật mình. Có tịch thì rục rịch. Có voi đòi tiên/Hai Bà Trưng. Cò hến tranh công, ngư ông thủ lợi. Con dại cái mang. Con giun xéo lắm cũng quằn. Con hơn cha là nhà có phúc. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Con ông cháu cha Con rồng cháu tiên. Con sâu làm rầu nồi canh. Còn nước còn tát. Hết nước tát tới bùn. Cõng rắn về cắn gà nhà. Cõng voi về dày mả tổ. Công nợ trả dần, cháo húp vòng quanh. Công sinh thành không bằng công dưỡng dục. Cốt nhục phân li Của ăn của để. Của đi thay người. Của ít lòng nhiều. Cười như được mùa Cười như xé vải Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Cưng như trứng mỏng. Cứu vật, vật trả ân, cứu nhân, nhân trả oán. D[sửa] Dày công vun xới Dầu sôi lửa bỏng Dục tốc bất đạt Diễn hòa vi quý Dài lưng tốn vải Đ[sửa] Đá thúng đụng nia. Đại công cáo thành Đàn gảy tai trâu. Đánh chó phải coi mặt chủ. Đầu xuôi đuôi lọt Đi đêm có ngày gặp ma Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Đi ngang về tắt. Đi sớm về muộn. Điếc không sợ súng. Điệu hổ ly sơn. Đen như củ tam thất. Đen như mực. Đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn. Đũa mốc chọc mâm son Đứng núi này trông núi nọ. Được đằng chân lân đằng đầu. Được nước lấn tới Được voi đòi tiên. E[sửa] Én bay cao mưa rào lại tạnh. Én bay thấp mưa ngập bờ ao. Ê[sửa] Ếch ngồi đáy giếng. G[sửa] Gần mực thì đen gần đèn thì sáng. Ghét của nào, trời trao của ấy. Giả nhân giả nghĩa Giả thần giả quỷ Giàu vì bạn, sang vì vợ. Giận cá chém thớt Giấu đầu hở đuôi. Giậu đổ bìm leo. Giấy rách phải giữ lấy lề. Gieo gió gặt bão. Giết người diệt khẩu Gió chiều nào theo chiều ấy. Giơ cao đánh khẽ. Giương đông kích tây Góp gió thành bão H[sửa] Há miệng chờ sung Hát hay không bằng hay hát. Hết tình hết nghĩa Học ăn học nói, học gói học mở. Hổ dữ chẳng ăn thịt con. Hổ phụ sinh hổ tử. Hoa nhường nguyệt thẹn Học, học nữa, học mãi Học một biết mười. Học thầy không tày học bạn. Hữu danh vô thực. Hữu dũng vô mưu. Học ăn học nói, học gói, học mở I[sửa] Im hơi lặng tiếng Im lặng là vàng. K[sửa] Kẻ cắp gặp bà già Kẻ tám lạng người nửa cân Khách đến nhà không gà thì vịt Khẩu phật tâm xà Khéo ăn thì no khéo co thì ấm Khỏe như trâu Khôn ba năm dại một giờ. Khôn đâu đến trẻ khoẻ đâu đến già. Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. Khôn nhà dại chợ Khôn cũng chết dại cũng chết biết thì sống Không thầy đố mày làm nên Khổ trước sướng sau Kiếm một ăn mười Kiến tha lâu cũng đầy tổ Kiết nhân thiên tướng Kinh thiên động địa Kỳ phùng địch thủ L[sửa] Lá ngọc cành vàng. Lạt mềm buộc chặt Lâm li bi đát. Lên thác xuống ghềnh Lên voi xuống chó Lắp ba, lắp bắp. Liệu bò đo chuồng. Liệu cơm gắp mắm. Liệu sức đốn cây Lo bò trắng răng. Lọ là con mắt tráo trưng mới giầu. Lông thòi, đuôi thọt. Lợi dụng cơ hội Lời ăn tiếng nói Lưỡng toàn kỳ mỹ Lành ít dữ nhiều M[sửa] Ma cũ bắt nạt ma mới Mã đáo thành công Mang con bỏ chợ. Mãnh hổ nan địch quần hồ. Mạt cưa mướp đắng. Máu chảy ruột mềm Mắng chó chửi mèo/Mắng mèo chửi chó. Mắt nhắm mắt mở. Mặt dày mặt dán. Mất bò mới lo làm chuồng. Mất trộm mới lò rào dậu. Mất lòng trước được lòng sau Mật ngọt chết ruồi Mây xanh thì nắng mây trắng thì mưa Mẹ cú con tiên, mẹ hiền con thảo. Mẹ hát con khen hay. Mèo khen mèo dài đuôi. Miệng nam mô bụng bồ dao găm Mình đồng da sắt Môi hở răng lạnh. Môi mỏng dính như cánh chuồn chuồn. Mồm loa mép giải Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ Một công đôi việc Một điều nhịn bằng chín điều lành Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Một liều ba bẩy cũng liều Một mất một còn. Một mất mười ngờ Một nắng hai sương. Một vừa hai phải. Mua tận gốc, bán tận ngọn. Muốn ăn gắp bỏ cho người. Muốn ăn thì lăn vào bếp. Mưa to gió lớn. Mượn hoa kính Phật Mượn gió bẻ măng Mượn gió đẩy thuyền Mừng như mở cờ trong bụng N[sửa] Nam vô tửu như kỳ vô phong. Nằm gai nếm mật. Năng nhặt chặt bị Năng nói năng lỗi. Nem công chả phượng. Ngang như cua Ngang tài ngang sức Ngậm máu phun người. Ngày lành tháng tốt. Nghĩa tử là nghĩa tận. Nghiêng nước nghiêng thành. Nghiên thành đổ nước Ngựa quen đường cũ. Người ăn thì còn, con ăn thì mất. Người tính không bằng trời tính. Nguồn đục thì dòng không trong, gốc cong thì cây không thẳng Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm. Nhàn cư vi bất thiện. Nhân định thắng thiên. Nhập gia tùy tục. Nhất bên trọng, nhất bên khinh. Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún. Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô! Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Nhất phao câu, nhì đầu/chéo cánh gà. Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò Nhìn trước ngó sau Nhũn như chi chi No ba ngày tết, đói ba tháng hè. Nó bé nhưng gié nó to. No cơm ấm cật. Nó lú nhưng chú nó khôn. Nói có sách, mách có chứng. Nói một đường làm một nẻo. Nồi nào úp vung nấy. Nước chảy đá mòn. Nước đổ đầu vịt Nước đổ lá khoai Nước ngập tới chân Nước ngập tới đầu Nước đổ lá môn Nước thắm lá môn Nước mắt cá sấu. Nước xa không cứu được lửa gần. Ô[sửa] Ông mất tay giò, bà thò chai rượu. Ông bảy mươi học ông bảy mốt. Ơ[sửa] Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Ở đâu âu đấy. Ở hiền gặp lành. Ở sao cho vừa lòng người. Ơn cha báo đáp, ơn mẹ dưỡng thành. Ơn cha nghĩa mẹ. Ơn trời biển. P[sửa] Phi thương bất phú. Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Phú quý sinh lễ nghĩa , bần cùng sinh đạo tặc. Q[sửa] Qua cầu rút ván. Qua sông đấm cò vào sóng. Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung! Quần là áo lượt. Quần lĩnh áo the. Quốc sắc thiên hương Quỷ tha ma bắt. R[sửa] Ráo nước bọt. Râu ông nọ cắm cằm bà kia. Rõ như ban ngày. Rối như tơ vò. Ruột để ngoài da. Rượu bất khả ép, ép bất khả từ. Rượu mua thì uống, rượu cho thì đừng. Rượu vào lời ra. Rừng vàng biển bạc. Rán sành ra mỡ S[sửa] Sai một li, đi một dặm. Sang sông phải lụy đò. Sáng tai họ, điếc tai làm Sinh nghề tử nghiệp. Sinh li tử biệt Sinh tử chi giao Sống để bụng chết mang theo. Sơn cùng thủy tận. Sơn hào hải vị. Sơn lam chướng khí. Sông có khúc người có lúc. Sống chết có nhau Sùi bọt mép Sự thật mất lòng. Sức khỏe là vàng. Sinh cư lập nghiệp. T[sửa] Tắt lửa tối đèn. Tận cùng sơn thủy Thả con săn sắt, bắt con cá rô. Tham công tiếc việc. Tham sống sợ chết Tham thì thâm. Thâm sơn cùng cốc. Thất điên bát đảo Thật thà như đếm. Thầy bói xem voi Thấy người sang bắt quàng làm họ. Thắng không kiêu, bại không nản. Thẳng như ruột ngựa. Thời cơ chín mùi Thời gian là vàng, là bạc Thua keo này, bày keo khác. Thua me gỡ bài cào. Thuận mua vừa bán. Thuận nước đẩy thuyền Thừa nước đục thả câu. Thừa thắng xông lên. Thuốc đắng giã tật, nói thật mất lòng. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Thượng đội hạ đạp. Thượng lộ bình an, nằm ngang giữa đường. Tích tiểu thành đại. Tình chàng ý thiếp Tình hết nghĩa còn Tiểu phú do cần đại phú do thiên Trà dư tửu hậu. Trà tam rượu tứ. Trèo cao ngã đau Trêu hoa ghẹo nguyệt. Tri pháp phạm pháp Trọn tình trọn nghĩa Trọng nam khinh nữ. Trời long đất lở Trời tru đất diệt Trung quân ái quốc Tứ cố vô thân. Tứ hải giai huynh đệ Tứ tử trình làng. U[sửa] Uống nước nhớ nguồn. Ư[sửa] Ước sao được vậy. Ướt như chuột lội/lụt. V[sửa] Vạch áo cho người xem lưng. Vạn sự khởi đầu nan. Vạn sự như ý. Vắng chủ nhà, gà vọc niêu tôm. Vắng như chùa bà đanh. Vắt chanh bỏ vỏ. Vắt cổ chày ra nước. Vật đổi sao dời. Vẹn cả đôi đường. Việc nhà thì nhác, việc chú bác siêng năng. Vỏ quýt dày, móng tay nhọn. Vô pháp vô thiên Vô phương cứu chữa Vơ đũa cả nắm. Vu oan giá họa. Vui như tết. Vùi hoa dập liễu. Vung tay quá trán/đầu. Vụng chèo khéo chống. Vụng múa chê đất lệch. Vừa ăn cướp vừa la làng Vững như bàn thạch X[sửa] Xa mặt cách lòng. Xa thơm gần thối. Xem/trông/nhìn mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon. Xích chó bụi rậm. Xuôi chèo mát mái Y[sửa] Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo. Yêu nhau lắm, cắn nhau đau. Yêu trẻ, trẻ đến nhà. Kính già, già để tuổi cho. Ý nghĩa của thành ngữ "muốn ăn, gắp bỏ cho người" Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao. Việc nói thành ngữ là một tập hợp từ cố định có nghĩa là thành ngữ không tạo thành câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, cũng không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ. Thành ngữ thường bị nhầm lẫn với tục ngữ và quán ngữ. Trong khi tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý nhằm nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, hay phê phán sự việc, hiện tượng. Một câu tục ngữ có thể được coi là một tác phẩm văn học khá hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, và chức năng thẩm mỹ, cũng như chức năng giáo dục. Còn quán ngữ là tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành. Định nghĩa - Khái niệm muốn ăn, gắp bỏ cho người có ý nghĩa là gì? Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của câu muốn ăn, gắp bỏ cho người trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ muốn ăn, gắp bỏ cho người trong Thành ngữ Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ muốn ăn, gắp bỏ cho người nghĩa là gì. Kẻ vòng vo lẩn tránh, không giám nói và làm một cách thẳng thắn, đường hoàng; kẻ tham lam, ích kỷ chỉ biết vơ lợi vào riêng mình mà lại tỏ ra là người lịch sự, cao thượng. Thuật ngữ liên quan tới muốn ăn, gắp bỏ cho người đi cày ba vụ không đủ ăn ba ngày tết là gì? hết hồn hết vía là gì? câm miệng hến là gì? châu về hợp phố là gì? yếu như sên là gì? nồi đồng lại úp vung đồng là gì? nhường cơm sẻ áo là gì? ăn đất nằm sương là gì? phong lưu phú quý là gì? lệnh ông không bằng cồng bà là gì? nghiêng nước nghiêng thành là gì? thay bậc đổi ngôi là gì? mống vàng thì nắng, mống trắng thì mưa là gì? thịt nát xương tan là gì? cha truyền con nối là gì? Tóm lại nội dung ý nghĩa của câu "muốn ăn, gắp bỏ cho người" trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt muốn ăn, gắp bỏ cho người có nghĩa là Kẻ vòng vo lẩn tránh, không giám nói và làm một cách thẳng thắn, đường hoàng; kẻ tham lam, ích kỷ chỉ biết vơ lợi vào riêng mình mà lại tỏ ra là người lịch sự, cao thượng. Đây là cách dùng câu muốn ăn, gắp bỏ cho người. Thực chất, "muốn ăn, gắp bỏ cho người" là một câu trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt được cập nhập mới nhất năm 2023. Kết luận Hôm nay bạn đã học được thành ngữ muốn ăn, gắp bỏ cho người là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới. Muốn ăn gắp bỏ cho người Xã hội càng hiện đại, cuộc sống càng trở nên xô bồ. Bữa cơm gia đình đang dần nhườnng chỗ cho những buổi hội hè, tiệc tùng. Nhiều người ỷ có tiền, mới ngồi vào bàn đã quát tháo chê bai nhà hàng, thả sức hò hét nhân viên. Thuở nhỏ, mỗi lần có đình đám, tôi thường được ông nội cho đi theo ăn cỗ. Tôi luôn khép nép ngồi ở một góc cạnh ông và đợi được gắp cho miếng nào thì chỉ dám ăn miếng ấy. Ông tôi dạy, ăn uống phải từ tốn, "ăn phải trông nồi, ngồi phải trông hướng". Ngồi ăn trên phản giữa nhà, không bao giờ được quay lưng vào bàn thờ tổ tiên. Khi ăn phải xem trong mâm có những gì để biết nhường mọi người. Chẳng hạn, trong mâm có mỗi khoanh giò chia đều làm 6 khúc. Mỗi người chỉ được ăn một khúc. Nếu vô tình ăn 2 khúc tức là đã ăn vào phần của người khác. Thế là kẻ phàm ăn. Vào bữa ăn, món gắp mở đầu phải là miếng rau, miếng dưa hay mấy sợi nộm. Không ai mới vào mâm đã chọc đũa ngay vào miếng giò lụa, hay gắp luôn cái phao câu gà. Định ăn miếng nào thì gắp miếng ấy. Không gắp lên rồi để lại, cấm kỵ dùng đũa lật đi lật lại bới đĩa thịt gà đã xếp gọn gàng phần da được lợp lên trên để tìm miếng ngon cho mình. Khi ăn phải nhìn trước nhìn sau, biết nhường các cụ cao tuổi. Có các cụ trong mâm thì phải mời “rước cụ xơi trước, rước cụ dùng chén rượu…”. Ăn canh thì không được húp sùm sụp, ăn nóng không được thổi phù phù... Điều quan trọng hơn cả là trong mâm, chủ nhà hay người ít tuổi, kẻ bề dưới luôn gắp thức ăn bỏ vào bát khách hoặc bề trên. Hành động đó nhằm thể hiện sự kính cẩn. Dẫu rằng không biết thực khách có thích hay không, nhưng làm thế để thể hiện cái bụng của chủ nhà ân cần với khách. Cứ sau mỗi bữa cỗ, nếu điều gì tôi xử sự không phải, về nhà ông tôi lại nghiêm khắc nhắc nhở, dạy dỗ. Những bài học ăn, học uống hay đúng hơn là học cách cư xử sao cho phải phép cứ thế được ông bà, rồi bố mẹ tôi truyền dạy năm này qua năm khác và nó thấm vào cuộc sống của tôi một cách tự nhiên. Sau này va chạm với cuộc đời, tôi cứ như thế mà xử sự không hề gượng sống ngày càng trở nên xô bồ. Các dịp hội ngộ ăn uống trong gia đình giảm dần. Người ta quen lối sống hội hè, ăn nhậu ở nhà hàng. Ngồi vào mâm là quát tháo chê bai nhân viên. Khi ăn thì thả sức hò hét, có khi còn thách nhau uống hết két bia này đến chai rượu khác và luôn miệng đồng thanh gào “dzô! dzô!” như đang kéo gỗ dựng cột nhà. Việc ăn uống trong đám cưới giờ cũng khác xưa nhiều. Đến dự tiệc cưới chưa cần biết cô dâu chú rể ở đâu, họ nhà trai hay nhà gái thế nào, khách cứ bỏ phong bì vào cái hòm hình trái tim đặt trước cửa như “trạm soát vé tự động”. Rồi khách lại cũng tự động… kiếm một góc ngồi, tự khui bia chạm cốc và ăn uống rào rào, chẳng cần mời mọc ai. Mà kỳ thực, cũng chẳng có ai mời mọc. Phải chăng lời mời ăn cỗ đã lịch sự in trên thiệp cưới rồi, khỏi mời thêm nữa?! Ở tiệc cước bây giờ, khi "ban tổ chức" giới thiệu cô dâu chú rể, họ nhà trai, nhà gái ra mắt thì nhiều thực khách đã xong bữa, ngậm tăm xỉa răng, ngả người ngắm nhìn và bình luận. Phép lịch sự của các cụ dạy ngày xưa, vào đây dường như “hết cửa” có nhiều dịp được mời đi nói chuyện với các bạn nước ngoài về những phong tục, tập quán ứng xử trong ăn uống của người Việt khi họ mới đến Việt Nam. Tôi cứ theo cái vốn của ông bà, bố mẹ truyền lại mà chia sẻ với họ. Nào là khi ăn chuối phải bẻ đôi và bóc vỏ từng nửa quả nom tựa đóa hoa, không bóc tuột cả vỏ nhai nhồm nhoàm; nào là muốn ăn chiếc bánh nếp phải bóc ra sao cho khỏi dính và vỡ nát; rồi khi ăn phải cầm đũa thế nào… Bữa cơm thời xưa người phụ nữ luôn là người ngồi đầu nồi Riêng phong cách gắp thức ăn bỏ vào bát để mời người khác thì các bạn nước ngoài thực sự không thể hiểu nổi. Tại sao lại gắp vào bát người khác cái món ăn mà không biết người đó có thích hay không? Đặc biệt, người châu Âu có thói quen ăn uống rất coi trọng sở thích tự do cá nhân thì không tài nào hiểu được cái lệ gắp bỏ cho người “kỳ khôi” ấy. Tôi phải gắng giải thích để các bạn thấu hiểu được văn hóa của người Việt. Tôi cũng phải giới thiệu một phong cách gắp bỏ cho người đã cải tiến, tức là khi gắp thức ăn tiếp cho người khác thì phải trở đầu đũa chứ không dùng đầu đũa mình đang ăn. Điều thú vị là người châu Âu không thể nào hiểu nổi khi ngồi vào mâm cỗ lại được chủ nhà gắp vào bát của mình cái đầu, cái chân gà, là những thứ mà bên nước họ không dành cho người. Họ không hiểu được trong quan niệm người Việt, “nhất thủ nhì vĩ", "ăn chân bổ chân, ăn thủ bổ thủ, ăn cổ, ăn cánh để cùng nhau tiến cao, bay xa có anh có em cùng cổ cùng cánh”… Có một vị khách Tây sợ hết hồn khi thấy miếng phao câu béo vàng được bỏ vào bát mình, vì cho rằng nó chứa lắm “cô - lét - xì - tê - rôn”, song vì nể chủ nhà vẫn nhắm mắt cho vào có một anh bạn người Nga đã ở Việt Nam hơn chục năm qua. Anh là nhà nghiên cứu động vật học và chuyên gia về chuột. Anh ăn mòn bát trên đất Việt từ Nam chí Bắc, uống rượu cần Tây Nguyên, rượu “quốc lủi” như cơm bữa. Bẵng đi nhiều năm, sau khi Liên bang Xô Viết sụp đổ, năm ngoái tôi mới gặp lại anh trong một chuyến khảo sát thực địa ở Đồng Tháp. Anh chủ động mời chúng tôi vào một nhà hàng bên bờ sông ở Cao Lãnh. Như một người Việt thực sự hiếu khách, lịch thiệp và sành sỏi, trong vai trò chủ tiệc, anh gọi món mời khách. Anh cầm đũa gắp vào bát tôi một miếng thịt đùi béo vàng theo đúng phong tục của người Việt. Nhưng đó là đùi của món “chuột cống nhum rô ti”, món mà tôi sợ nhất. Nhưng theo phép lịch sự ông tôi đã dạy, tôi nhắm mắt mà ăn, còn trong lòng chỉ mong câu ca dao xưa thành hiện thực “Muốn ăn gắp bỏ cho người / Gắp đi gắp lại, lại rơi vào mình”. TS. Vũ Thế Long/ nhịp sống thời đại

muốn ăn gắp bỏ cho người