(8,0 điểm) Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ. Từ việc cảm nhận về đoạn thơ Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm), anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên. Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận về đoạn thơ Đất Nước làm sáng tỏ nhận định: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh cùng quý thầy cô tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm Tìm hiểu chất liệu văn hóa dân gian trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ góp phần tô đậm “dấu vân tay” trong cá tính sáng tạo nghệ thuật thơ của tác giả qua nghệ thuật chắt lọc tinh tế, sâu sắc văn hoá dân gian của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời khẳng định một Mở bài 1: “ Đất nước ” là một đề tài cao đẹp nhất của văn học kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với vốn hiểu biết sâu sắc về lịch sử và văn hóa dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca “ Mặt đường khát vọng ” – 1974 đã có một khám phá thật mới Tóm lại, tìm hiểu chất liệu văn hoá dân gian trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm góp phần giúp giáo viên và học sinh nhận diện các giá trị các sản phầm VHDG, và sự tìm tòi khai thác sáng tạo đặc sắc của nhà thơ trong việc thể hiện cảm hứng chủ 1. MỞ BÀI. Bạn Đang Xem: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm – Giới thiệu về: nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm Mặt đường khát vọng và đoạn thơ Đất Nước: GAfy. Đề bài Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước - Nguyễn Khoa ĐiềmDÀN BÀI GỢI Ý1. MỞ BÀI GIỚI THIỆU CHUNG- Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm “Mặt đường khát vọng” và đoạn thơ Đất Nước+ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.+ Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.+ Đoạn thơ trên thuộc chương V - chương "Đất nước" của bàn trường ca; thể hiện những nhận thức sâu sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong quan hệ gắn bó với mỗi con Dẫn dắt nhận định Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới THÂN BÀINhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian. Những chất liệu ấy vừa quen thuộc gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam vừa mới lạ với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn- Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc với mỗi con người Việt Nam + Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,....+ Có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích. - Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo + Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn bài khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói...Ví dụ~ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" lấy ý từ bài ca dao "Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" hay "Muối ba năm muối hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa"~ "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng"+ "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" lấy ý từ bài ca dao "Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất..."...+ Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc "làm ra Đất Nước"Ví dụ Truyến thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù "dân mình biết trồng tre mà đánh giặc", tinh thần uống nước nhớ nguồn "Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu...Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm"Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa] nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ "Đất Nước của nhân dân/ Đất Nước của ca dao thần thoại"3. KẾT BÀI- Nhận định được nêu ra trong bài là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu tác phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đoan trích, ta thấy được tư tưởng sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Đoạn thơ khẳng định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vốn văn hóa phong phú. Một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời đời hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh của người cầm Qua đoạn thơ, để lại bài học sâu sắc về cuộc sống biết trân trọng những giá trị văn hóa dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá trị gần gũi, quen thuộc. Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa văn học dân gian là đưa yếu tố văn hoá, văn học dân gian một cách sáng tạo vào trong tác phẩm. Để làm được điều này một cách tự nhiên, nhuần nhị, hấp dẫn là điều không hề dễ dàng. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã làm được điều đó. Đọc “Đất Nước”, ta thấy có những yếu tố của thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt của dân ta gắn với những hình ảnh quen thuộc như miếng trầu, bới tóc, cái kèo, cái cột, hạt gạo. Những chất liệu ấy được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sử dụng rất đa dạng và sáng tạo trong “ Đất Nước”. Điểm sáng tạo của nhà thơ khi vận dụng chất liệu là tác giả thường chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích mà giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh của một Đất Nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hóa lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống của mỗi người. đầu tiên phải kể đến trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là vận dụng ca dao, tục ngữ một cách nhuần nhị. Mở đầu đoạn trích, tác giả đi lí giải về cội nguồn sinh ra đất nước. đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không được tạo nên bởi những gì trừu tượng, xa xôi mà được hình thành, tạo nên bởi những gì gần gũi nhất. Đó là tình nghĩa thuỷ chung son sắt của cha mẹ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Câu thơ được lấy ý từ câu ca dao Tay bưng chén muối đĩa gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” Ý thơ nhằm ca ngợi lối sống giàu tình nghĩa và tấm lòng thủy chung, son sắt của người Việt Nam. Đất nước ta gắn với nền văn minh lúa nước từ xa xưa . Bởi vậy, giải thích nguồn cội của đất nước nhà thơ không thể không nhắc đến hình ảnh cây lúa, hạt gạo “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng” Hình ảnh thơ gợi cuộc sống lam lũ, tảo tần. Để làm ra hạt gạo trắng thơm, người nông dân phải đổ biết bao mồ hôi công sức một nắng hai sương. Phảibán mặt cho đất, bán lưng cho giời, phải trải qua nhiều công đoạn xay, giã, dần, sàng mới có được thành quả. Câu thơ khiến ta liên tưởng đến bài ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.” Khi định nghĩa về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc đến với hình ảnh của một đất nước không hề xa lạ. Nó chính là nơi nảy nở của tình yêu lứa đôi khi mỗi người đến tuổi trưởng thành “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” Ý thơ được lấy từ bài ca dao quen thuộc nói “Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai…” Tình yêu đi liền với nó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ chính là thước đo của tình yêu . Khi yêu nhau, gần nhau người ta cũng nhớ, xa nhau thì càng thấy nhớ thương da diết, cồn cào, cháy bỏng. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo bài ca dao Khăn thương nhớ ai.. để đem đến cho câu thơ một cảm nhận mới mẻ về nỗi nhớ trong tình yêu. Đất Nước trong định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với không gian nhỏ bé gần gũi là nơi anh đến trường, là bến nước nơi em tắm . Mà hình ảnh đất nước còn gắn với không gian rộng lớn mênh mông của rừng vàng, biển bạc “Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” “Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Câu thơ được nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò Bình- Trị- Thiên quen thuộc “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi” Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi định nghĩa về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dị của quê hương, xứ sở mình. Thật tự hào thay, quê hương mình lúc nào cũng trù phú, giàu đẹp “ rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu” Hồ Chí Minh Lịch sử nước ta là lịch sử của các vua hùng dựng và giữ nước . Từ xưa đến nay, mỗi người dân đất Việt luôn ý thức sâu sắc về nguồn cội của mình. Vì vậy, dù có đi đâu về đâu cũng không quên nhớ ngày giỗ tổ Hùng Vương “Hàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” Cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên là điều ta không bao giờ có thể quên. Vì vậy, Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi chúng ta về truyền thống uống nước nhớ nguồn từ bao đời nay của dân mình. Ca dao xưa cũng từng nhắc nhở ta “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba” Từ nền văn học dân gian, nhà thơ đã khám phá ra biết bao vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của người Việt ta từ xa xưa. Đó là những con người yêu say đắm, thủy chung “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” Ý thơ được lấy từ câu ca dao quen thuộc “Yêu em từ thuở trong nôi Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” Từ ca dao, nhà thơ cũng khám phá ra vẻ đẹp của những con người biết quý trọng lối sống tình nghĩa, biết nâng niu, trân trọng những gì có được từ sự khó nhọc, gian nan “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” Ca dao xưa cũng nói về những con người như thế “Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” Qua ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cũng phát hiện ra phẩm chất bền bỉ kiên cường , quyết liệt trong chiến đấu, trong công cuộc dựng và giữ nước của cha ông ta “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu”Bền bỉ, kiên cường , quyết liệt là những phẩm chất cần có của con người trong mọi thời kì, nhất là trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Câu thơ của thi nhân được lấy ý từ câu ca dao “Thù này ắt hẳn còn lâu Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què “ Như vậy có thể thấy, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng một cách sáng tạo ca dao, tục ngữ tạo nên những vần thơ thơ mượt mà đằm thắm, trữ tình, thiết tha. thứ hai trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là đưa truyền thuyết, truyện cổ tích vào ý thơ một cách tự nhiên. Nguyễn Khoa Điềm không dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, cũng không dùng cách nói trang trọng để giải thích về nguồn cội của đất nước, mà tác giả đã chọn một cách nói dung dị nhưng thấm thía. “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể” Đất nước có từ “ngày xửa ngày xưa”, tức là đất nước đã có từ lâu lắm rồi. Từ trong những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mẹ thường hay kể cho ta bên cánh võng ầu ơ. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” cũng gợi ta liên tưởng đến những câu mở đầu thường thấy trong các câu truyện cổ dân gian mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa xưa. Đất nước ta lớn lên cùng truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc Câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi ta nghĩ đến truyền thuyết Thánh Gióng . Hình ảnh cậu bé vươn vai thành tráng sĩ nhổ tre đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi đã thể hiện tinh thần yêu nước kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc hơn bốn ngàn năm lịch sử của cha ông ta. Đất nước còn là nơi phát sinh và phát triển của cộng đồng người Việt qua bao thế hệ. Từ thuở sơ khai, với truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên”, “Lạc Long Quân và Âu Cơ” đã “ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” “Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Nguyễn Khoa Điềm đã thật sáng tạo trong ý thơ. Chỉ bằng một vài hình ảnh đã gợi ra những truyền thuyết xa xưa về nguồn cội dân mình. Dân tộc ta là con rồng, cháu tiên cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, quen thuộc biết bao. Nhà thơ vận dụng rộng rãi nhiều chất liệu văn học dân gian từ các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết của nhân dân ta để cảm nhận về đất nước. Cách nói này vừa đậm đà tính dân tộc, vừa giàu tính trí tuệ mới mẻ. thứ ba trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là sử dụng những yếu tố của phong tục tập quán người Việt Nam để cảm nhận về đất nước. Đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với những câu tục ngữ, ca dao, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mà nó còn gắn với bề dày truyền thống văn hóa với những phong tục tập quán có từ ngàn đời xưa của cha ông ta “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” Hình ảnh miếng trầu gợi liên tưởng tới sự tíchtrầu cau, đến phong tục ăn trầu của người Việt. Nét đẹp văn hóa ấy cho đến ngày nay vẫn được bảo tồn, lưu giữ. Bởi từ xưa đối với người Việt ta miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu nên dâu nhà người. Đất nước thật lớn lao kì vĩ lại được bắt đầu từ những điều nhỏ bé bình dị biết bao! Không chỉ có tục lệ ăn trầu, mà tục bới tóc sau đầu cũng là một nét đẹp văn hóa được nhà thơ gợi nhắc qua câu thơ “Tóc mẹ thì bới sau đầu” Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi ta nhớ đến lời ca dao “Tóc ngang lưng vừa chừng em bới Để chi dài bối rối lòng anh.” Bới tóc sau đầu là là một thói quen đã trở thành tập tục từ ngàn đời xưa của dân ta. Hình ảnh người mẹ có bới tóc sau đầu gợi vẻ đẹp hồn hậu, giản dị, dịu dàng, nữ tính. Đây là nét đẹp văn hóa có sức sống lâu bền. Dù trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng nét đẹp ấy vẫn được giữ gìn. Theo tiến trình phát triển của đất nước, dân tộc ta tiến lên nền văn minh lúa nước gắn với nền sản xuất nông nghiệp. Người Việt ta từ xưa đã biết xây dựng nhà cửa để che mưa, trú nắng “Cái kèo, cái cột thành tên” Cái kèo, cái cột là những vật dụng quen thuộc khi dựng nhà của cha ông ta. Những vật dụng ấy đã được lấy để đặt tên cho con cái. Những cách đặt tên không cầu kì, hoa mĩ thể hiện được nếp sống hồn nhiên, giản dị của người xưa. Hình ảnh miếng trầu giản dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc bới sau đầu của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã. Những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, nét đẹp văn hóa, thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam. Qua việc vận dụng đậm đặc, sáng tạo chất liệu văn hoá văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã làm nổi bật trước mắt người đọc hình ảnh của một đất nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống quanh ta. Chất dân gian thấm sâu vào tư duy nghệ thuật, tư tưởng cảm xúc của nhà thơ trong Đất Nước tạo nên một dấu ấn độc đáo khó phai trong lòng mỗi bạn đọc yêu văn! Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang Lê Văn Phước phát biểu tại lễ khai mạc nêu bật sự kiện này càng có ý nghĩa hơn khi được tổ chức vào dịp tỉnh An Giang chuẩn bị kỷ niệm 135 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng và kỷ niệm 10 năm thành lập TP Châu Châu Đốc hấp dẫn bởi tài nguyên du lịch phong phú, nổi bật với địa hình núi đá nổi giữa vùng đồng bằng trù phú, liền kề hệ thống kênh rạch tạo nên cảnh quan thiên nhiên độc đáo; các giá trị lịch sử, văn hóa gắn liền khu danh thắng núi Sam với quần thể di tích được xếp hạng cấp quốc gia như miếu Bà Chúa Xứ, lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Tây An, chùa Phước Điền hay còn gọi là chùa Hang.Tiết mục văn nghệ tại lễ khai mạc Lễ hội cấp quốc gia Vía Bà Chúa Xứ núi Sam năm 2023. Ảnh TTXVNĐặc biệt là giá trị văn hóa truyền thống của Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam có sức hút mạnh mẽ đối với hàng triệu người dân, du khách cả trong và ngoài hội được gắn với chuỗi các sự kiện lớn của thành phố Châu Đốc từ ngày 8 - 14/6 nhằm ngày 21/4 đến 27/4 âm lịch, như Lễ kỷ niệm 323 năm ngày mất Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh 1700 - 2023, 194 năm ngày mất danh thần Thoại Ngọc Hầu 1829 - 2023.Sau Lễ khai hội, thành phố Châu Đốc tổ chức lễ phục hiện rước tượng Bà, Lễ rước được thực hiện theo đúng nghi lễ cổ truyền thông qua hình thức sân khấu hóa đặc sắc đã tái hiện lại nguồn gốc, lịch sử bà Chúa các ngày diễn ra Lễ hội Vía bà Chúa Xứ Núi Sam, cùng với phần nghi lễ trang trọng, để thu hút khách du lịch và nhân dân, UBND thành phố Châu Đốc còn tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật sôi nổi phục vụ nhân dân và du khách như Biểu diễn múa lân sư rồng; chương trình văn nghệ mang sắc thái văn hóa 4 dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm…Cùng với đó là hội thi thả đèn hoa đăng, triển lãm ảnh nghệ thuật, các hoạt động thể thao quần vợt, cờ tướng, thể dục dưỡng sinh, hội thi leo núi, các trò chơi dân gian giật cờ, tung cầu, nhảy bao bố, trò chơi vận động liên hoàn, bóng chuyền hơi…Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân thành phố Châu Đốc, An Giang; chứa đựng những giá trị lịch sử - văn hóa đặc trưng trong dòng chảy văn hóa Nam Bộ. Bản sắc văn hóa trong Lễ hội được cộng đồng duy trì, thực hành, trao truyền, từ thế hệ này sang thế hệ khác, có tính lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống văn hóa tâm hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam là dịp để giới thiệu, quảng bá tới đồng đảo nhân dân và du khách trong, ngoài nước về tiềm năng và thế mạnh, vẻ đẹp và sức hấp dẫn của du lịch Châu Đốc nói riêng, An Giang nói chung. Đồng thời, qua đó giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, xây dựng thành phố Châu Đốc văn minh hiện đại, hấp dẫn thân thiện, giàu bản sắc..Là lễ hội truyền thống của người dân Châu Đốc hàng trăm năm nay, Lễ hội mang đậm văn hóa của cư dân vùng Tây Nam Bộ, thể hiện bản sắc và sự kế tục của cộng đồng người Kinh trong tiến trình giao lưu tiếp biến văn hóa với người Hoa, Khmer, 2014, Lễ hội đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. UBND tỉnh An Giang quyết định không thu phí tham quan Khu du lịch quốc gia Núi Sam đối với du khách trong dịp Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam từ ngày 8 - 14/ tổng hợp Đoạn thơ đã sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian trong đó có văn học dân gian. Từ các truyền thuyết vào loại xa xư­a nhất của dân tộc ta như­ Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng, Hùng V­ơng đến truyện cổ tích, nh­ Trầu Cau, đặc biệt là nhiều câu ca dao, dân ca, của nhiều miền đất nư­ớcVí dụ “Cha mẹ th­ương nhau bằng gừng cay muối mặn” Là từ câu ca dao Tay bư­ng chén muối đĩa gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” gợi nhớ đến câu ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”“Biết quí trọng công cầm vàng những ngày lặn lội” là đư­ợc rút từ câu ca dao Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng. Chất liệu văn học dân gian đã đ­ược tác giả sử dụng vào đoạn thơ một cách linh hoạt và sáng tạo. Không lặp lại hoàn toàn các câu ca dao, dân ca, nhà thơ th­ờng chỉ dùng một hình ảnh hoặc một phần của các câu ca đó để đ­a vào tạo nên câu thơ của mình. Các truyền thuyết và truyện cổ tích cũng đư­ợc sử dụng theo cách gợi nhắc tới bằng một hình ảnh hoặc tên gọi. Tác giả vừa đ­a ngư­ời đọc nhập cả vào môi tr­ường văn hóa, văn học dân gian đồng thời lại thể hiện đ­ược sự đánh giá, cảm nhận đ­ược phát hiện của tác giả về kho tàng văn hoá tinh thần ấy của dân tộc. Văn hóa dân gian là bộ phận không thể tách rời của di sản văn hóa quốc gia, thể hiện sự đa dạng và phong phú của tinh hoa dân tộc. Chất liệu văn hóa dân gian là những tài liệu, vật phẩm, phong tục, hình ảnh, âm nhạc, truyền thuyết, và các giá trị tinh thần khác được lưu truyền qua hàng thế hệ. Bài viết này sẽ giới thiệu và khám phá những chất liệu văn hóa dân gian đặc sắc trong đất nước của chúng ta, nhằm tôn vinh và giữ gìn di sản quý giá này. Truyền thuyết và ca dao Truyền thuyết và ca dao là hai hình thức văn hóa dân gian được lưu truyền từ bao đời nay. Chúng không chỉ thể hiện sự sáng tạo và tài hoa của người dân, mà còn là bài học lịch sử, đạo đức và triết lý sống. Truyền thuyết và ca dao phản ánh tâm hồn dân tộc, sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội, và niềm tin tôn giáo của mỗi miền đất. Lễ hội dân gian Lễ hội dân gian là những sự kiện văn hóa đặc trưng của từng vùng miền trong đất nước. Chúng thể hiện niềm vui, sự đoàn kết, và tín ngưỡng của người dân, đồng thời là cơ hội để các nghệ nhân, nghệ sĩ thể hiện tài năng và sự sáng tạo. Các lễ hội dân gian như Đua bò Bảy Núi, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội Lim, hay Lễ hội Chùa Hương là những minh chứng sống động cho sự phong phú và đa dạng của di sản văn hóa dân gian. Nghệ thuật biểu diễn dân gian Nghệ thuật biểu diễn dân gian là một hình thức văn hóa đặc sắc, thể hiện sự sáng tạo và tinh hoa của người dân. Các loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian như hát chèo, hát xẩm, tuồng, ca trù, dân ca quan họ, múa lân, và hát bội không chỉ giúp giải trí, mà còn góp phần gìn giữ và truyền bá di sản văn hóa dân gian. Những biểu diễn này thể hiện tài năng của nghệ sĩ, sự đa dạng văn hóa của từng vùng miền, và niềm tự hào dân tộc. Đồ thủ công mỹ nghệ dân gian Đồ thủ công mỹ nghệ dân gian là minh chứng cho sự khéo léo, tài hoa và óc sáng tạo của người dân. Các sản phẩm thủ công như gốm sứ, đồ mộc, dệt may, đan lát, và khảm trai không chỉ đẹp mắt và hữu ích, mà còn mang đậm bản sắc văn hóa của từng vùng miền. Đồ thủ công mỹ nghệ dân gian hiện nay được rất nhiều người ưa chuộng và sử dụng, không chỉ trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. Ẩm thực dân gian Ẩm thực dân gian là một phần không thể thiếu của di sản văn hóa quốc gia. Mỗi vùng miền có những đặc sản ẩm thực độc đáo, phong phú và hấp dẫn, tạo nên bản sắc ẩm thực đặc trưng của đất nước. Các món ăn dân gian như phở, bánh mì, bún chả, bánh xèo, nem cuốn, và cơm tấm không chỉ ngon miệng, mà còn thể hiện sự đa dạng văn hóa và sáng tạo của người dân. Chất liệu văn hóa dân gian trong đất nước là những giá trị quý giá được lưu truyền qua hàng thế hệ, thể hiện sự đa dạng và phong phú của di sản văn hóa quốc gia. Việc gìn giữ và phát huy những chất liệu văn hóa dân gian này không chỉ giúp tôn vinh bản sắc dân tộc, mà còn góp phần nâng cao đời sống tinh thần và tạo nên sự hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Hãy cùng nhau bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân gian trong đất nước của chúng ta. Dàn ý 1. MỞ BÀI – Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm Mặt đường khát vọng và đoạn thơ Đất Nước + Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. + Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. + Đoạn thơ trên thuộc chương V – chương Đất nước của bàn trường ca; thể hiện những nhận thức sâu sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong quan hệ gắn bó với mỗi con người. – Dẫn dắt nhận định Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ. 2. THÂN BÀI Nhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian. Những chất liệu ấy vừa quen thuộc gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam vừa mới lạ với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn – Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc với mỗi con người Việt Nam + Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,…. + Có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích. – Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo + Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn bài khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói… Ví dụ – “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” lấy ý từ bài ca dao “Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” hay “Muối ba năm muối hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa” – “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” – “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” lấy ý từ bài ca dao “Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất…” … + Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc “làm ra Đất Nước” Ví dụ Truyến thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”, tinh thần uống nước nhớ nguồn “Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu … Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” – Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này. – Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa] nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ “Đất Nước của nhân dân/ Đất Nước của ca dao thần thoại” 3. KẾT BÀI – Nhận định được nêu ra trong bài là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu tác phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đoan trích, ta thấy được tư tưởng sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Đoạn thơ khẳng định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác giả. – Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vốn văn hóa phong phú. Một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời đời hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh của người cầm bút. – Qua đoạn thơ, để lại bài học sâu sắc về cuộc sống biết trân trọng những giá trị văn hóa dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá trị gần gũi, quen thuộc. Tôi là Nguyễn Văn Sỹ có 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế, thi công đồ nội thất; với niềm đam mê và yêu nghề tôi đã tạo ra những thiết kếtuyệt vời trong phòng khách, phòng bếp, phòng ngủ, sân vườn… Ngoài ra với khả năng nghiên cứu, tìm tòi học hỏi các kiến thức đời sống xã hội và sự kiện, tôi đã đưa ra những kiến thức bổ ích tại website Hy vọng những kiến thức mà tôi chia sẻ này sẽ giúp ích cho bạn!

chất liệu văn hóa dân gian trong đất nước